Lịch sử hình thành Thị trấn Xuân An

Lịch sử Thị trấn Xuân An

LỜI NÓI ĐẦU
––––––

          Xuân An là vùng đất có truyền thống văn hóa từ lâu đời được gìn giữ, phát huy qua các thời kỳ. Từ khi thành lập đến nay trải qua các chặng đường của lịch sử. Đảng bộ Xuân an đã vượt qua bao khó khăn, thử thách để trưởng thành, phát triển. Lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, viết lên những trang sử hào hùng của quê hương.
          Thực hiện Nghị quyết Đại hội, Đại biểu Đảng bộ Thị trấn Xuân An lần thứ XIX nhiệm kỳ ( 2005 - 2010). Xuất phát từ nguyện vọng tha thiết của cán bộ, Đảng viên, các tầng lớp nhân dân và con em Xuân An đang sinh sống, học tập, công tác trên mọi miền đất nước và nước ngoài. Đảng ủy - HĐND - UBND - UBMTTQ Thị trấn Xuân An biên tập và xuất bản cuốn “Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Xuân An ( 1930 - 2005)”. Nhằm ghi chép lại chặng đường 75 năm chiến đấu vẻ vang đầy gian lao thử thách và vô cùng anh dũng trong công cuộc chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và xây dựng CNXH, nhằm bước đầu tổng kết thành tích và kinh nhiệm lãnh đạo của Đảng bộ, từ đó giáo dục nâng cao nhận thức và lòng tự hào về quê hương là đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước để tiếp tục phát huy năng lực trí tuệ của cán bộ, Đảng viên và nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng, xây dựng Quê hương ngày càng giàu mạnh.
          Trong quá trình chỉ đạo, biên tập, sưu tầm và xác minh tư liệu. Ban chỉ đạo, Ban biên tập đã nhận được sự chỉ đạo và giúp đỡ của Ban thường vụ Huyện uỷ, Ban Tuyên giáo Huyện uỷ, cán bộ, đảng viên, cán bộ lão thành cách mạng, nhiều bậc cao niên đã góp ý chân thành và đã cung cấp tư liệu, cứ liệu, sự kiện để đảm bảo được tính chính xác và khoa học.
          Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng trong quá trình sưu tầm, biên soạn còn gặp nhiều khó khăn về công tác lưu trữ tài liệu, số liệu, thời gian còn hạn chế. Vì vậy công tác biên tập nên cuốn Lịch sử  không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được các đồng chí, đồng bào với tình cảm quê hương góp nhiều ý kiến xây dựng.
          Đảng ủy - HĐND - UBND - UBMTTQ - Ban chỉ đạo, Ban biên tập “ Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Xuân An” xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và sự chỉ đạo của cấp trên, sự góp ý chân thành đầy nhiệt tâm của Cán bộ, Đảng viên và nhân dân đã tích cực giúp đỡ, tạo điều kiện để cuốn Lịch sử được hoàn thành và xuất bản.

                                                                                                                                Xuân An, ngày 22 tháng 11 năm 2008
                                                                                                                                            THƯỜNG VỤ ĐẢNG ỦY
                                                                                                                    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỊ TRẤN XUÂN AN.
 

BAN CHỈ ĐẠO BIÊN TẬP


    

1.Trịnh Quốc ViệtHuyện UV, Bí thư BCH Đảng bộ   - Trưởng ban
2.Trần Đình ÂnPhó Bí thư thường trực Đảng uỷ- Phó ban
3.Phan Duy KhươngP.BT Đảng uỷ, Chủ tịch UBND- Phó ban
4.Hoàng Mạnh TừUỷ viên BTV Đ. Uỷ, Chủ tịch HĐND- Ban viên
5.Đậu Thị ThuỷUỷ viên BTV Đ.uỷ, Chủ tịch UBMTTQ- Ban viên

 
TỔ BIÊN TẬP VÀ SƯU TẦM

1.Trần Duy Kha- Tổ trưởng
2.Lê Anh Tài 
3.Ngô Quang Lộc 
4.Trần Quang Truyền 
5.Lê Năng 
6.Lê Thuý 
7.Lê Toại 
8.Trần Huy Tảo- Chủ biên

 
 

CHƯƠNG I.
THỊ TRẤN XUÂN AN - VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT GIÀU TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA, YÊU NƯỚC VÀ CÁCH  MẠNG.
––––––––

          Thị trấn Xuân An xa xưa là đất Kẻ Lách - Kẻ Lau thuộc xã An Lạc tổng Tam Xuân và xã Khải Mông tổng Xuân Viên huyện Nghi Xuân, đất địa đầu của tỉnh Hà Tĩnh, nơi khởi đầu của Núi Hồng Lĩnh, có dòng Sông Lam uốn khúc chảy qua.
          Núi Hồng và Sông Lam trên đất Xuân An, quyện chặt, bổ sung cho nhau tạo nên thế cân bằng đầy ý nghĩa:
 

" Nếu không có Sông Lam
Núi Hồng buồn biết mấy
Núi Hồng không đứng đấy
Sông Lam trông cũng thừa…
…Núi cao cho dáng đứng
Sông dài cho bước đi" ( Thơ Xuân Hoài)

          I. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN CỦA THỊ TRẤN XUÂN AN.

          Địa hình Thị trấn Xuân An gần giống hình thang lệch, có chiều dài gần 5km và chiều rộng 3km. Diện tích tự nhiên gần 15km2, nhưng đất nông nghiệp chỉ có 430 ha. Phía tây và bắc là Sông Lam bao bọc có độ dài gần 7 km, bên bờ bắc là thành phố Vinh tỉnh Nghệ An. Phía nam giáp 2 xã Xuân Hồng và Xuân Viên. Phía đông là xã Xuân Giang.
          Địa lý tự nhiên của Thị trấn Xuân An có 4 đặc điểm nỗi  trội hiếm có so với các nơi trong huyện Nghi Xuân và cả tỉnh Hà Tĩnh. Bốn đặc điểm ấy là: Cận sơn, Cận giang, Cận thành phố và là vùng đất địa đầu của huyện và tỉnh.
          Những đặc điểm tự nhiên ấy suốt chiều dài lịch sử đã tác động sâu sắc và chi phối đời sống, để lại dấu ấn đậm nét trong cốt cách con người Xuân An.
          1. Núi đồi. 
          Gần 2/3 diện tích tự nhiên của Thị trấn Xuân An là núi và đồi. Núi ở Xuân An là cụm núi  cực bắc của dãy núi Hồng Lĩnh ở Hà  Tĩnh.
          Khởi đầu của núi Hồng Lĩnh ở Xuân An là Núi Cơm ( Phong Phạn) tuy chỉ cao trên 30 m nhưng là một danh sơn nổi tiếng ở xứ Nghệ. Cùng nằm ở bờ nam Sông Lam, nhưng xuôi về phía đông có Núi Ranh ( Núi Qũy, Núi Lão Qụa, Núi Thạch Định) cao chưa đầy 10m trải rộng 100 m2 trên đất thôn Trung Lộc. Tương truyền tên chữ của hai ngọn núi nhỏ này là Vua Lê Thánh Tông cuối thế kỷ XV đặt khi nhà Vua tuần du trên Sông Lam, ngự thuyền dưới chân núi trên đất Kẻ Lách vãn cảnh thiên nhiên kỳ thú, non nước hữu tình.
          Cách núi Cơm gần 500m, Núi Hồng Lĩnh bắt đầu đột khởi bởi núi Lách cao hơn 100 m, kéo dài gần 2km, uốn lượn, soi mình xuống Sông Lam, chếch về hướng đông nam là núi Lần, có độ cao 175m, tiếp đến là núi Tam Thai. Các núi này nối nhau tạo thành thế liên hoàn là địa giới tự nhiên của đất An Lạc, Khải Mông xưa với các xã Tam Xuân Hạ ( Xuân Hồng) và Xuân Viên.
          Trên đỉnh Núi Lách, Lần, Tam Thai Hàm Rồng còn có nhiều hang động, truông, đầm, mỏm đá, …….với nhiều tên gọi nôm na, dân giả như: Truông trâu, Cụp voi, Đá thùng thùng, Đá gạo, Đá lưỡi cày… mà mỗi tên gọi đều gắn với các sự tích, truyền thuyết vô cùng sinh động, phản ánh thế giới tâm linh đa dạng và truyền thống văn hóa, yêu nước phong phú của người dân Kẻ Lách, Kẻ Lau…
          Xa xưa núi đồi ở Thị trấn Xuân An là rừng rậm, có nhiều gỗ quý như lim, dổi, táu, vàng tâm… Trong núi có nhiều loài chim quý, nhiều thú như: khỉ, lợn rừng, nai rừng… và nhiều loài rắn, rùa, trăn… Núi rừng còn là nguồn nứa, lau, đót, lá nón, củi, mây, song nguồn lợi to tớn của nhân dân. Rừng rậm cung cấp mạch nước ngầm tưới mát, vườn tược, đồng ruồng.
          Đáng tiếc là do bom đạn của chiến tranh và biến thiên lịch sử đã làm cho cây cối, muông thú và nước ngầm trên núi Hồng Lĩnh ở Xuân An bị cạn kiệt, làm cho rừng rậm thành núi trọc, đồi hoang, nạn lũ quét và hạn hán hai mùa mưa nắng hoành hành gây nên nhiều tai họa cho đời sống và sản xuất của nhân dân.
          Sau ngày tổ quốc thống nhất, hơn 1/3 thế kỷ khôi phục và phát triển kinh tế, đảng bộ, nhân dân Xuân An và cán bộ công nhân Lâm trường Hồng Lĩnh đã trồng mới hàng vạn cây thông trên núi tạo nên cảnh quan ngày càng hấp dẫn. Dẫu chưa bằng xưa nhưng đã có dáng dấp nước, non hữu tình, kỳ thú như trong thơ của tiến sỹ NgôThời Nhậm ( 1746 - 1803) cuối thế kỷ 18 vịnh cảnh vùng đất An Lạc:

" Chống trời lũy đá muôn trùng vút
Chắn gió gò cao vạn dặm dài
Đất có công hầu, dòng nước mát
Trời sinh hào kiệt, ánh sao soi
Cảnh yên nỗi tiếng sao kể xiết
Sờ sờ danh nhân sử chép rồi"
 

          Sản vật phong phú của núi đồi đã tạo nên các nghề: làm chổi đót, chằm nón, tơi, đốt củi, đốt than, thợ mộc ở Khải mông, An lạc.

          2. Sông, suối.

          Đoạn Sông Lam chảy qua địa phận Thị trấn Xuân An dài gần 7 km như một tấm lụa đào ôm trọn hai mặt tây và bắc của các xã An Lạc và Khải Mông. Đoạn sông này có hai khúc có hướng dòng chảy và chiều rộng của lòng sông khác nhau rõ rệt.
          Khúc phía tây, từ Núi Cơm ngược Xuân Hồng lòng sộng phình ra, rộng trung bình 800m. Nhưng từ Núi Cơm xuôi xuống Khải Mông lại có hướng đông bắc, ở đoạn Núi Cơm do bị chắn bởi núi Dũng  quyết ( Bến Thủy - Nghệ An ) ở bờ bắc  và Núi cơm ở bờ nam lòng sông bị hẹp lại chỉ còn trên 500m tạo nện độ chênh của mực nước. Khi qua khỏi Núi Cơm lòng sông bắt đầu phình trở lại và đến núi Ranh lòng sộng rộng tới 1000 m.
          Sự khác biệt về độ chênh và chiều rộng dòng chảy của Sông Lam ở Xuân An đã tạo nên bãi bồi lớn ở giữa dòng sông đối diện với phía đông nam làng Khải Mông. Đó là bãi Quần Mộc - nay là đất Xuân Giang 2.
          Sông Lam là đường thủy huyết mạch xưa nay của cả 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Từ Bến Thủy trên đất Xuân An thuyền bè, ca nô có thể rong ruỗi đi đến hầu khắp các huyện ở hai tỉnh và ra Cửa Hội đến với mọi miền đất nước.
          Sông Lam không chỉ cung cấp một phần nước ngọt cho đời sống và sản xuất nông nghiệp của người Xuân An mà còn là kho của cải về nguồn lợi thủy sản. Cá Sông Lam ngon, ngoài ra còn có hến, sò, cua, cáy, tôm, rạm… đặc biệt là rươi về mùa mưa là đặc sản  quý có gia trị xuất khẩu. Sông Lam cũng là nơi sinh cơ lập nghiệp của người dân vạn chài đánh cá sông, chèo đò và vận tải đường sông.
          Về mùa mưa, nước từ Núi Hồng Lĩnh chảy xuống đã tạo nên hơn 10 khe, suối, lớn nhỏ trên địa bàn Xuân An, khi bão lụt lớn, nước Sông Lam dâng cao lại dồn vào đồng ruộng, vườn tược trên đất Xuân An gây nên nhiều tổn thất. Song khác với ruộng đồng các xã Xuân Hồng, Xuân Lam nước lũ ngâmlâu ngày do nước Sông Lam rút chậm vì lòng sông khi qua Núi Cơm bị thu hẹp lại. Còn lũ lụt ở Xuân An lại nước rút nhanh  vì lòng Sông Lam từ Rú Ranh trở xuống Khải Mông lại phình ra.
          Trong số hơn 10 con khe, suối lớn nhỏ ở Xuân An chảy ra Sông Lam có các khe Thạch Giang ( Khe đá) ở Thượng Thôn và Khe Đồn ở Khải Mông có độ dài và là thắng cảnh từ xa xưa hơn các con khe khác.
          Ngoài bến đò Bến Thủy ( Bến Ngự - nơi Vua Lê Thánh Tông và Quang Trung - Nguyễn Huệ xưa đã cho đậu thuyền tại bến), là bến đò chính ở Xuân An qua bờ Sông Lam, còn có hai bến đò phụ là Bến đò Đá Lưỡi cày ở Thượng Thôn đi qua vùng Hưng Lợi huyện Hưng Nguyên - NghệAn và bến Đồn ở Khải Mông đi sang bãi bồi Cồn Mộc (Xuân Giang 2).
          3. Ruộng đất:
          Đất nông nghiệp ở Xuân An có 630 ha trong đó có 430 gieo trồng, nhìn tổng thể, đất đai ở Thị trấn Xuân An chủ yếu là đất pha cát, diện tích được phù sa Sông Lam bồi đắp chỉ trên 100ha, số còn lại trên 4/5 của đất nông nghiệp độ phì kém, hàng năm bị lũ quét bào mòn, thường xuyên bị hạn hán.
          Ngoài cây lúa và khoai là chủ yếu, đất Xuân An còn thích hợp với các cây công nghiệp ngắn ngày như: kê , lạc, đậu, vừng. Diện tích trồng lạc hiện nay lên đến hơn 200 ha trở thành cây trồng chính trong vụ sản xuất đông xuân. Đất trong vườn của dân ngoài các loại: hồng, cam, bưởi, na, chanh, quýt  đã  du nhập các  loại cây mới như: xoài, nhãn, vãi, hồng xiêm…
          Rau màu vụ đông xuân còn có:  xu hào, bắp cải, cô ve, các loại rau gia vị như hành, tỏi, hẹ… và rau muống về mùa hè cũng phù hợp với thổ nhưỡng, được nhân dân trồng ngày càng nhiều.
          Do chưa chủ động được tưới  nước về mùa hạn hán và tiêu úng về mùa mưa lũ, nên sản xuất nông nghiệp ở Xuân An còn phụ thuộc vào thời tiết, thiếu tính bền vững, năng xuất thấp, hiệu quả kinh tế không cao.
          Ngoài nghề nông là chính, Thị trấn Xuân An ngày nay kinh tế ngày càng đa dạng bao gồm chăn nuôi vịt đàn, nuôi cá, thủ công và các ngành dịch vụ, buôn bán công nghệ phẩm và các loại hàng hóa vật tư phục vụ đời sống và sản xuất. Các xưởng sản xuất sữa chữa cơ khí nhỏ phát triển ngày càng nhiều, các cơ quan, xí nghiệp nhà nước và tư nhân có trên 60 đơn vị đang làm biến đổi đời sống kinh tế xã hội của Thị trấn. Khu công nghiệp Xuân An đã được quy hoạch, đang từng bước được xây dựng cơ sở hạ tầng, có nhiều triển vọng đưa Xuân An sớm trở thành một Thị trấn có công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ, du lịch phát triển.
          4. Khí hậu:
          Cùng như các xã trong huyện Nghi Xuân, Thị trấn Xuân An chịu ảnh hưởng chế độ gió mùa Tây Nam và Đông Bắc.
          Gió mùa Tây Nam ( gió Lào) diễn ra  từ tháng 4 đến tháng 8 tiếp đến là gió mùa Đông Bắc từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau.
          Điểm khác với các địa phương trong huyện là do vị trí, đặc thù của tự nhiên nên gió Lào và gió Đông bắc ở Thị trấn Xuân An có sức gió ở cấp độ cao hơn, vì dòng Sông Lam chảy đến Bến Thủy bị Núi Lách ở bờ nam và Núi Quyết ở bờ bắc, thu hẹp tạo thành điểm hút gió nên khi thổi qua Xuân An cường độ mạnh hơn ở nơi khác. Đặc điểm ấy làm cho khí hậu thêm khắc nghiệt, gây nên nhiều trở ngại cho sản xuất và đời sống nhiệt độ cao nhất về mùa hè có lúc lên đến 39 - 400C, và mùa đông cá biệt có năm nhiệt độ xuống 100C.
          5. Cầu, đường và chợ.
          Thị trấn Xuân An là đầu mối của nhiều đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ ở Nghi Xuân và Hà Tĩnh.
          Đường quốc lộ số I khi qua cầu Bến Thủy là đến đất Xuân An. Từ mố cầu phía nam, đường quốc lộ số I uốn lượn bên sườn núi Lách và mép bờ đông Sông Lam, dài 2km tạo nên hình sông, thế núi hữu tình. Đường này là đường thiên lý từ bắc vào nam có từ thời Bắc thuộc. Đến năm 1913 thực dân Pháp mới cải tạo thành đường quốc lộ cho xe cơ giới, đến 1925 mới rải nhựa xong đoạn Vinh đi Nha Trang, những năm đầu thế kỷ XX, lúc Bác Hồ còn là cậu bé Nguyễn Sinh Cung theo cha mẹ từ Nam Đàn đi bộ xuống Vinh qua đò Bến Thủy đã từng nghỉ chân dưới tán cây Da Lách, Sáng 15/6/1957 sau hơn nửa thế kỷ trong lần vào thăm Hà Tĩnh người mới trở lại bến đò xưa.
          Năm 1991 Bộ giao thông vận tải khánh thành cầu sắt bắc qua Sông Lam dài hơn 635m ở hạ lưu bến phà Bến Thủy.
          Sau 1925 đường tỉnh lộ Da Lách đi Hội Thống dài 20 km được thi công, đến năm 1943 mới được rải nhựa nhưng chỉ xuống đến huyện lỵ Nghi Xuân.
          Tháng  6/ 1965 Ban đảm bảo giao thông vận tải Hà Tĩnh mở đường 18 từ ngã ba Trung Lộc Thị trấn Xuân An chạy vào xã Xuân Viên qua Xuân Lĩnh nối với quốc lộ I ở xã Đậu Liêu ( nay thuộc Thị Xã Hồng Lĩnh) để tránh đoạn quốc lộ I từ Xuân An vào Xuân Lam.
          Thời gian làm đường chỉ mất 3 tháng. Lực lượng thi công gồm: Đội công trình giao thông, tổng đội thanh niên xung phong số 55 và hơn 300 dân công huyện Nghi Xuân. Riêng xã Xuân An có 1 trung đội dân công gồm 50 nam, nữ thanh niên.
          Cũng từ thôn Trung Lộc, trước 1945 có đường liên hương đi xuống các xã ven biển nay được mở rộng thành đường huyện lộ nối Xuân An với Cương Gián xe ô tô đi lại thông suốt.
          Trên quốc lộ I thuộc địa phận Xuân An có 2 cầu sắt và 2 cống lớn, trên tỉnh lộ Da Lách Hội Thống có 6 cầu sắt và 2 cống, cả 6 cây cầu này đều ngắn, độ dài chưa đầy 10m, đều là dòng chảy của các khe, suối từ trên núi Hồng Lĩnh  đổ nước ra Sông Lam.
          Ở Thị trấn Xuân An, từ lâu đời đã có chợ Lách và chợ Đồn, chợ Lách ban đầu hợp gần bến đò, sau nhiều lần di chuyển, nay chợ họp ở Thượng Thôn trên đường tỉnh lộ Da Lách  đi Hội Thống.
          Chợ Lách xưa nay là nơi trao đổi hàng hóa không chỉ của dân trong thị trấn mà bà con các xã Xuân Hồng, Xuân Viên, Xuân Giang trong huyện và nhân dân Hưng Lợi, Vinh - Bến Thủy bền bờ Bắc Sông Lam ( Nghệ An) cũng sang hợp chợ.
 

 
II. KHÁI LƯỢC QÚA TRÌNH TỰ CƯ, HÌNH THÀNH LÀNG, XÃ, THỊ TRẤN Ở XUÂN AN.

          Tháng 10/1962 đội khảo cổ học của vụ bảo tồn, bảo tàng Bộ văn hóa  khai quật di chỉ văn hóa đồ đồng Đông Sơn ở di chí Núi Cơm xã Xuân An, đã tìm thấy nhiều công cụ bằng đồng thau như rìu đồng, rìu lưỡi xéo, lưỡi cày đồng, dạo và mũi tên đồng cùng với mảnh nồi nấu đồng còn dính xỉ đồng… Những hiện vật ấy chứng tỏ nghề đúc đồng ở đây là tại chỗ.
          Tiếp đến trên đất Xuân An các nhà khảo cổ học còn tìm thấy đồ gốm thời Bắc thuộc ở di chỉ Núi Cơm, rải rác ven Sông Lam và trong đồng ruộng ở Thượng Thôn, Trung Lộc, Mộ củi thời Trần ở Cồn Cao Thượng Thôn.
          Những hiện vật khảo cỗ ấy đã đưa đến nhận định của các nhà khoa học về sự tồn tại của con người Việt cổ trên đất Xuân An cách ngày nay trên dưới 3000 năm. Tương ứng với thời đại Hùng Vương với nền văn hóa Đồng thau Đông sơn. Nhận định ấy cũng rất phù hợp với các truyền thuyết lịch sử về Kinh Dương Vương lúc đầu lấy vợ cả là Lộc Tục sinh ra Lạc Long Quân đã chọn Hồng Lĩnh ở Hoan Châu làm cố đô. Về sau Lạc Long Quân theo cha ra xứ bắc lấy vợ là Âu Cơ  chọn núi Nghĩa Lĩnh làm kinh tô của 18 đời vua Hùng trên đất Phú Thọ ngày nay.
          Cư dân đầu tiên sinh sống trên đất Xuân An chính là bộ tộc người Việt cổ thời Hùng Vương dựng nước, trải qua gần 1000 năm Bắc thuộc và đến buổi đầu quốc gia Đại Việt tự chủ đã trở thành làng xóm: đó là Kẻ Lách, Kẻ Lau là Khải Mông ở các Triều đại Lý Trần, nơi có chùa Thanh Lương được lập thời nhà Lý, được xem là " Quốc tự".
          Từ Kẻ Lau, Kẻ Lách, Khải mông đến trước 1945 trở thành xã An Lạc có 3 làng; Thượng Thôn; Trung Lộc và Gia Hòa thuộc Tổng Tam xuân và làng Khải Mông thuộc xã Khải Mông ( nhất xã, nhất thôn) thuộc Tổng Xuân Viên, trước cách mạng tháng 8/1945 (1). Cách mạng tháng 8 thành công, ủy ban nhân dân  cách mạng lâm thời  ở Nghi Xuân và cả tỉnh Hà Tĩnh, không lập chính quyền cấp xã. Đến tháng 12/1945 sau ngày khôi phục lại tỉnh ủy Hà Tĩnh có chủ trương bỏ chính quyền cấp làng và Tổng, thống nhất toàn tỉnh chỉ có chính quyền ba cấp ( xã, huyện và tỉnh). Xã An Lạc có 3 thôn ( Thượng Thôn, Trung Lộc, Gia Hòa) Làng (xã) Khải Mông sát nhập với các thôn Tiên Cầu, Tả Ao , Báu Lâm và Cẩm Mỹ thành xã mới lấy tên là xã Giang Nam.
          Đến cuối 1949 thực hiện chủ trương hợp xã của ủy ban kháng chiến hành chính Hà Tĩnh, hai xã An Lạc và Giang Nam hợp nhất thành xã lớn là An Giang.
          Tháng 5/1954 thực hiện chủ trương của ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu 4, chia xã lớn thành xã nhỏ như sau  cách mạng tháng 8/1945 và tất cả xã mới đều có một từ chung là Xuân. Nên xã An Giang được chia thành hai xã: Là xã Xuân An và Xuân Giang.
          Xã Xuân An lúc này có 4 làng: Thượng Thôn, Trung Lộc, Gia Hòa và Khải Mông, có 447 hộ, 1806 nhân khẩu ( có gần 1/4 là giáo dân) chi bộ Đảng có 67 đảng viên.
 
          (1) Dưới triều Nguyễn xã An Lạc cũ còn có làng Trung Lao, sau đó cắt về xã Tam Xuân Hạ và gọi là Thôn Trung Sơn thuộc xã Xuân Hồng ngày nay. BBT chưa xác định được thời gian cụ thể. 
          Sau gần 3 năm tái lập tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 6/1994 Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định chuyển xã Xuân An thành Thị trấn Xuân An.
          Thị trấn Xuân An hiện nay có 13 tổ dân phố gồm: 2.333 hộ dân ( có 442 hộ giáo dân)  với 9.278 nhân khẩu có 2029 khẩu giáo dân và 198 khẩu theo đạo phật.

          Hệ thống chính trị Thị trấn Xuân An gồm.

          Đảng bộ có 421 đảng viên ( 140 nữ, 7 giáo dân).
          Hội Người cao tuổi:        918 hội viên.
          Hội Nông dân:               1.184 hội viên.
          Đoàn TNCSHCM:                   196 hội viên
          Cựu chiến binh:              330 hội viên
          Hội LH Phụ nũ:             1.800 hội viên.
          Cựu TNXP:                             67 hội viên
          Cựu giáo chức:               55 hội viên.
          13 khối dân phố đó là:
                   Thượng Thôn: có 5 khối từ 1 - 5.
                   Trung Lộc: có 2 khối từ 6 - 7.
                   Gia Hòa: có 3 khối từ 8A, 8B và 9.
                   Khải Mông: có 3 khối từ 10 - 12.

          III. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở THỊ TRẤN XUÂN AN.

          Cũng như các làng xã trong huyện Nghi Xuân và tỉnh Hà Tĩnh, từ xa xưa người dân Xuân An sớm có đới sống tâm linh, tín ngưỡng trong cộng đồng dân cư. Phổ biến và lưu truyền lâu dài, bền vững là các tục lề thờ phụng tổ tiên, ông bà, cha mẹ và các bậc tiên linh trong họ tộc, gia  đình, thờ gia thần. Vị gia thần quen thuộc và phổ biến nhất là Táo quân, Thổ công tiếp đến là thờ các vị tiên sư, tổ sư như thờ Thần Nông…, thờ các vị thánh hoàng làng, xã là những người có công với dân với nước…
          Ngoài các tập tục ấy từ thời Lý Trần người Xuân An đã dựng chùa thờ phật, và những năm giữa thế kỷ 19, đạo Thiên chúa bắt đầu du nhập vào Xuân an.
          Trước cách mạng tháng 8/1945 cũng như hiện nay ở Xuân An song song tồn tại hai tôn giáo là Phật giáo và Thiên chúa giáo với tỷ lệ 25% số dân.
          1. Phật giáo: 
          Thời Lý - Trần phật giáo rất thịnh hành ở nước ta, vùng Ngàn Hống là trung tâm Phật giáo ở Xứ Nghệ, có hệ thống chùa khá dày đặc, có vị Thiền sư nổi tiếng là Pháp Giới ở chùa Uyên Trừng ( Xuân Hồng ) cạnh  làng Trung Lao xã An Lạc. Trên đất Kẻ Lau, Kẻ Lách,Khải Mông cùng sớm xuất hiện các Chùa như Thanh Lương, Phong Phạn.
          Chùa có đầu tiên trên đất Thị trấn Xuân An là chùa Thanh Lương ở Khải mông tương truyền chùa này do Lý Nhật Quang  con trai thứ 8 của Vua Lý Thái Tổ khi vào trấn thủ Nghệ An ( lúc này bao gồm cả Hà Tĩnh) lập ra, chùa được mang tên " Quốc Linh tự".
          Đến thời Lê Thánh Tông về sau trên vùng đất xã  An Lạc có thêm chùa Phong Phạn dưới chân Núi Cơm, chùa An Lộc dưới chân Núi Ranh thuộc Trung Lộc, nhưng nổi tiếng nhất là chùa Phong Phạn với nhiều tên gọi, Chùa Cơm, Chùa Kẻ Lách, Chùa An Lạc… tương truyền vua Quang Trung- Nguyễn Huệ trên đường tiến quân từ Phú xuân (Huế) ra Bắc Hà diệt 20 vạn quân Thanh có dừng chân đến vãn cảnh non nước hữu tình ở chùa và có thơ vịnh cảnh chùa Phong Phạn.
          Do chủ trương " Hợp tự" nên sau 8/1948 các chùa An Lộc và Thanh Lương trở thành phế tích, chùa Phong Phạn bom đạn Mỹ phá hủy ( 1968), việc thờ phụng phật trong nhân dân ngày càng phai nhạt. Sau 1975, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước, các chùa Phong Phạn và Thanh Lương được khôi phục. Đến nay ở Thị trấn Xuân An có gần 200 phật tử và hàng nghìn phật tử trong nước đến hương khói ở các chùa trên.
          Trong quá trình lịch sử, đặc biệt là từ ngày có Đảng Cộng sản lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà và xây dựng chủ nghĩa xã hội các bậc đại đức, tăng ni, phật tử ở Xuân An đã hăng hái tham gia, đóng góp tích cực vào sự nghiệp chung của đất nước, quê hương, tiêu biểu cho lòng yêu nước chống ngoại xâm của bà con phật tử ở Xuân An là nhà sư: Nguyễn Văn Thành trong kháng chiến  chống Pháp đã trút áo cà sa đảm đương vai trò Chủ tịch Mặt trận Liên việt xã An Giang những năm 1949- 1954. Nhà sư Phạm Xuân Diện trụ trì chùa An Lộc, sau hợp tự, hoàn tục, gia nhập đảng làm Chủ tịch Mặt trận Xã Xuân An, đã mất do bom đạn Mỹ.
          2. Thiên chúa giáo: 
          Theo truyền ngôn của các bậc cao tuổi trong giáo dân ở Gia Hòa kể lại thì vào những năm ra đời giáo phận nam Đàng ngoài ( 1846) thường gọi là giáo phận Vinh đặt toàn giám mục ở Xã Đoài ( Kẻ Nón Nghi Lộc - Nghệ An) quản lý giáo hội cả ba tỉnh: Nghệ An - Hà Tĩnh và Quảng Bình đạo thiên chúa mới du nhập vào đất Xuân An ngày nay. Khởi đầu là một số giáo dân theo cụ Nguyễn Đăng Quý từ bờ bắc Sông Lam sang định cư ở làng Gia Hòa - An Lạc, từ đây đạo Thiên chúa được nhanh chóng truyền đạo đến nhiều làng xã trong huyện Nghi Xuân. Ban đầu còn trực thuốc giáo xứ làng Ênh ở Nghị Lộc ( Nghệ An)  đến năm 1855 Gia Hòa được tách ra lập riêng một giáo xứ độc lập bao gồm 10 họ đạo trong huyện Nghi Xuân. Đây là một trong 7 giáo xứ đầu tiên trên đất Hà Tĩnh. Đến 1955 giáo xứ Gia Hòa  tách thành 2 giáo xứ là Gia Hòa và Cam Lâm. Từ đó lại nay giáo xứ Gia Hòa có5 họ tạo trong đó có 3 họ trên đất Xuân An là: Gia Hòa, Xuân Hòa và Yên Hòa và 2 họ ở Yên Lĩnh ( Xuân Hồng) và Tả Ao ( Xuân Giang).
          Trải qua hơn 150 năm hình thành và phát triển, giáo xứ Gia Hòa nói chung và 3 họ ở Xuân An nói riêng đã lớn mạnh không ngừng. Từ buổi đầu chưa đầy một chục con chiên làm nghề chài lưới ven Sông Lam và đốn củi, đốt than trên núi Hồng Lĩnh, đến nay bà con giáo dân ở Thị trấn Xuân An đã có 442 hộ với 2029 nhân khẩu, ngoài ra còn có hàng trăm hộ và hơn 1500 nhân khẩu đang sinh sống ở miền Nam trong giáo xứ Gia Hòa ở Bình giả.
          Vượt qua mọi biến động của thời cuộc và mọi mặc cảm, đố kỵ do lịch sử để lại bà con giáo dân ở Xuân An từ trước 1945 cũng như hiện nay đã kề vai, sát cánh, chung lưng đấu cật,chia sẻ ngọt bùi với bà con không theo đạo ở trong xã, góp phần xương máu, công sức, tiền của vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước quê hương. Tiêu biểu cho tinh thần kính chúa, yêu nước của bà con giáo dân  ở Xuân An là linh mục Nguyễn Hữu Minh cuối 1933 đã xuất 120 quan tiền để cứu đói  cho dân nghèo Gia Hòa bị bão, lũ gây mất mùa, đói kém. Trong kháng chiến chống Pháp từ 1949 - 1954 thanh niên giáo dân ở Xuân An đã có 12 người nhập ngũ, là một  trong những giáo xứ có nhiều con em đi bộ đội.
          Trong những năm đầu hợp tác hóa nông nghiệp ( 1959 - 1962) Xuân An có hai chủ nhiệm hợp tác xã bậc thấp giáo dân ở An Hợp và Xuân Hoà.
          Sau khi thống nhất đất nước, binh mục Nguyễn Đức Tính là người có công với giáo hội và địa phương.
          Giáo xứ Gia hòa cũng tự hào có một số giáo dân trở thành cán bộ cốt cán ở huyện và thị trấn nêu gương sáng về lòng kính chúa, yêu nước, tận tậm phục vụ nhân dân.
          IV. NHỮNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG TIÊU BIỂU Ở XUÂN AN.
          Là một vùng đất cỗ, có núi Hồng Sông Lam bao bọc 3 phía, An Lạc - Khải Mông xưa - Thị trấn Xuân An này có rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa và cách mạng.
          Ngoài hệ thống đình làng, đền thờ các vị thần, các miếu , am, nền tế thần Nông, các nhà thờ họ ở Xuân An còn có hàng chục di tích lớn, nhỏ đủ các dạng như: Mỏm đá, Khe nước, Đầm, Mỏm núi, bãi rộng, gò đất… nằm rải rác trên núi, ven sông, trong làng xóm và ở đồng lúa, nương khoai. Tuy lớn nhỏ khác nhau, hình thù khác nhau, nhưng " bấy nhiêu di tích là những kỷ niệm thiêng liêng có ý nghĩa giáo dục. Từ hàng trăm hàng ngàn năm nay, những lùm cây cổ thụ, những thành lũy cổ kính, những tấm bia, những pho tượng bằng đất, gỗ đã bị nứt nẻ đó vẫn góp phần  quan trọng vào sự bồi dưỡng  tinh thần yêu chuộng lý tưởng và ý chí hy sinh cho chính nghĩa của các thế hệ thanh niên.(1)
          Tiêu biểu cho các loại hình di tích lịch sử , văn hóa, yêu nước và cách mạng ở Thị trấn Xuân An có các di tích sau.
          1. Cụm di tích khảo cổ, lịch sử, văn hóa và yêu nước, cách mạng Núi Cơm.
          a. Di chỉ khảo cổ học đồng thau và gốm thời đại văn hóa Đông Sơn, Núi Cơm.
          Di chỉ này nằm cạnh Núi Cơm, phía trước sân chùa Phong Phạn được các nhà khảo cổ học phát hiện năm 1960, bước đầu khảo sát, nghiên cứu tháng 10/1962.
          Từ hàng trăm hiện vật  bằng đồng thau và gốm có niên đại  3000 năm thuộc văn hóa đồng thau Đông Sơn cho ta những nhận định khoa học.
          Với các loại công cụ sản xuất như lưỡi cuốc, lưỡi cày, rìu, mũi tên đồng và các nồi, nắp nồi, dọi xe chỉ bằng gốm chứng tỏ con người ở đây đã tụ cư thành xóm, làng, biết sản xuất nông gnhiệp trồng lúa nước, khai thác lâm sản, săn bắt thú rừng và dệt vải, đời sống tự cung tự cấp, bước đầu có dư thừa  chút ít.
          Các xỉ đồng còn dính trên các mảnh vở của khuôn đúc các công cụ bằng đồng nói lên ở đây có nghề đúc đồng tại chỗ, chứ không phải hiện vật từ nơi khác sản xuất ra.
          Ngoài ra còn phát hiện ở di chỉ này chiếc khuyên tai bằng đá quắc đít là một loại đá không có ở Nghệ Tĩnh. Cũng tại di chỉ này còn tìm thấy chiếc khuyên tai hai đấu thú, có ba mấu. Đây là loại khuyên tai điển hình Văn hóa Sa Huỳnh  của người Chăm ( Chiêm Thành) ở Nam Trung bộ. Điều đó nói lên cư dân ở vùng Núi Cơm - Kẻ Lau, Kẻ Lách  xa xưa đã có sự giao lưu, trao đổi hàng hóa với các vùng, miền, xa xôi khác, có mối tương đồng với văn hóa Chăm phía nam Đèo Ngang.
 
          b. Núi Cơm.
          Núi Cơm còn có tên là núi Phong Phạn - tên này do vua Lê Thánh Tông đặt cho núi vào cuối thế kỷ 15 khi nhà vua ngự thuyền bên bờ Sông Lam ở An Lạc lên vãn cảnh Núi Cơm.
          Núi cao 30m ( có sách nói cao 28m?)  có hình chóp  nón với diện tích đáy là 2.666m2. Tuy nằm độc lập ven bờ Sông Lam đối diện với Núi Dũng quyết bên bờ bắc, song Núi Cơm là mạch của Núi Lách ăn ra tận bờ sông. Xa xưa núi có cây cối rậm rạp và nhiều muông thú như Khỉ, chồn, cáo và các loại rắn, chim sinh sống.
          Núi Cơm gắn liền với câu chuyện thần thoại đầy ý nghĩa nhân văn ăn sâu vào ký ức của người dân Xuân An. Tương truyền vào thời hồng hoang, có lần nước Sông Lam lên cao, hung giữ nhấn chìm làng mạc và mọi thứ bị  cuốn trôi ra biển. Để ngăn dòng nước tai họa ấy ông Đùng đã ra tay giúp đỡ  nhân dân Kẻ Lau, Kẻ Lách tả xung hữu đột. Vì bận rộn chống lũ ông Đùng để quên đùm cơm gói bên bờ Sông Lam, sáng hôm sau đùm cơm ấy mọc thành hòn núi nhỏ. Từ đó về sau dân làng gọi đỉnh núi  ấy là Núi Cơm để ghi tạc công sức của ông Đùng. Cuối thế kỷ 15 vua Lê Thánh Tông có lần đi thuyền trên Sông Lam, đến Kẻ Lách vua dừng thuyền dưới chân Núi Cơm lên vãn cảnh non nước kỳ thú. Nhà vua hay chữ ấy đã đặt tên Núi cơm là núi Phong Phạn.
          Trong suốt thời kỳ lịch sủ chống ngoại xâm của dân tộc núi Cơm đã chứng kiến biết bao sự tích anh hùng đánh giặc bảo vệ tổ quốc của nhân dân Xuân An nói riêng và Xứ Nghệ nói chung.  Ngày 01/5/1930 kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, chi bộ Nghi xuân đã tổ chức treo cờ Đảng trên đỉnh núi cơm. Ngọn cờ đỏ búa liềm thiêng liêng ấy tung bay bên bờ Sông Lam, dưới chân núi Hồng Lĩnh cỗ vũ hàng vạn người dân Xứ Nghệ hai bờ Sông Lam vùng dậy đấu tranh trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Bọn cầm quyền ở Nghi Xuân bắt hào lý  xã An Lạc hạ cờ. Song chúng bất lực,  bọn lính Lê Dương ở  Vinh ( Nghệ an) sau hai ngày mới dám sang trèo lên núi Cơm hạ cờ.
          Suốt trong hai lần chống chiến tranh phá hoại, núi Cơm đã trở thành điểm bị đánh phá ác liệt. Đây cũng là pháo đài bất khuất của quân dân ta trong chống Mỹ cứu nước. Trên đỉnh núi là đài quan sát, trận địa 12 ly 7. Trong lòng núi được khoét sâu làm nơi chứa hàng hóa. Dưới chân núi là nơi dấu phà phao, là nơi bám trụ của cán bộ công nhân phà Bến Thủy anh hùng. Đặc biệt ngọn đèn hoa tiêu trên sườn núi ở phía bắc đã làm nhiệm vụ hoa tiêu cho hàng vạn chiếc xe vào ra phà Bến Thủy an toàn trong mưa bom bão đạn.
          c. Bến đò cổ Phong Phạn và cầu phao Bến thủy.
          Theo sử sách cũ để lại, từ xa xưa sát chân núi Cơm có một bến đò cổ với nhiều tên gọi: bến đò núi Cơm, bến Phong Phạn, bến Ngự, bến đò Bến Thủy, bến đò Da Lách… Bến này không chỉ là điểm vượt Sông Lam qua Nghệ An, vào Hà Tĩnh mà còn là nơi  dừng chân nghỉ ngơi cho hành khách bộ hành và thuyền bè ngược xuôi từ miền tây xứ Nghệ ra biển và từ cửa Hội Thống đi vào.
          Tương truyền trước đây các vua, chúa từ Lý, Trần, Lê qua Trịnh Nguyễn đã từng neo thuyền ở bến, lên bộ vãn cảnh non xanh nước biếc nên thơ ở vùng đất An Lạc nên nhân dân quen gọi là bến Ngự.
          Đầu thập kỷ 20 của của thế kỷ 20, khi con đường quốc lộ số 1 thông xe cơ giới, phà Bến Thủy ra đời song những con đò hai bờ Sông Lam vẫn hoạt động ngày đêm nối hai miền quê của đất Hoan Châu.
          Trong chống chiến tranh phá hoại phà Bến Thủy là điểm đánh phá tập trung, dai dẵng, ác liệt vào bậc nhất ở Quân Khu 4. Song bộ đội cao xạ, công binh, dân quân Xuân An, tự vệ phà Bến Thủy đã " Quyết tử cho bến phà liên tục thông suốt".
          Từ một bến phà phát triển thành 5 bến là cả một quá trình thi mưu, đấu trí của quân dân ta đối với mọi thủ đoạn đánh phá tàn bạo và quỷ quyệt của không quân và hải quân Mỹ.
          Cán bộ công nhân phà Bến Thủy vinh dự được tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang  nhân dân.
          Năm 1991 cầu sắt Bến Thủy khánh thành, đánh dấu mốc son mới cho ngành làm cầu của nước ta. Song mố cầu phao Bến thủy vẫn để lại ở 2 bờ Sông Lam. Đây là một chứng tích lịch sử oai hùng của công tác đảm bảo giao thông vận tải, chi viện cho cách mạng miền Nam của đảng bộ và nhân dân hai tỉnh Nghệ Tĩnh nói chung và Xuân An nói riêng.
          d. Chùa Phong Phạn.
          Chùa này có lịch sử trên 2 thế kỷ và mang nhiều tên gọi: Chùa núi Cơm, chùa Kẻ Lau, chùa An Lạc , chùa Da lách, nhưng tên Phong Phạn  được dùng phổ biến hơn cả. Chùa nằm phía nam dưới chân núi Cơm, cạnh đường xuống đò Bến Thủy. Nhân dân từ lâu truyền lại sự tích ra đời của ngôi chùa là do ý nguyện của dân sở tại, đặc biệt là khách qua bến đò khi đợi ở bến ai cũng thắp hương trên mô đất cầu nguyện sự bình an. Từ đó ngôi chùa được xây cất và tu bổ ngày một khang trang. Các vị sư  lần lượt trụ trì đã để lại nhiều công đức cho nhân dân. Vào những năm từ 1920 về sau có vị sư già Thích Quảng Đức đến trụ trì đã có công chữa bệnh cho nhân dân bằng các bài thuốc rất công hiệu.
          Từ 1925 đến 1945 chùa Phong Phạn là điểm liên lạc, nơi ẩn náu, cất dấu tài liệu yêu nước  của hội Phục Việt, Đảng Tân Việt, Đảng cộng sản và Việt Minh ở Nghệ Tĩnh.
          Những năm 1965 - 1967 chùa Phong Phạn là nơi cất dấu hàng hóa, nơi nghỉ tạm của bộ đội, TNXP,công nhân chiến đấu bảo vệ bến phà, cầu phao. Tháng 6/1968 máy bay Mỹ đã dội bom đánh sập hoàn toàn chùa Phong Phạn và giết hại nhà sư Thích Quảng Mựu.
          Từ một phế tích, mấy năm gần đây với  lòng nhiệt tâm của phật tử và nhân dân thành phố Vinh và thị trấn Xuân An chùa Phong Phạn được xây dựng khang trang, trở thành một địa chỉ văn hóa có giá trị.
          Từ lâu, chùa Phong Phạn đã nổi tiếng, để lại dấu ấn trong thơ văn và lịch sử:Tiến sỹ Ngô Thì Nhậm ( 1746 - 1803) vị quân sư nổi tiếng  của vua Quang Trung đã ghi lại kỷ niệm khó quên trong lần lánh mưa ở chùa Phong Phạn.

" Trú mưa chùa Phong Phạn
Hong áo sải không về
Dường nhà chùa rộng lượng
Bếp đức phật từ bi
Non Hồng chín chín ngọn
Sông Lam chia ba chi
Ngựa xe đường đã thuộc
Chùa chiền cảnh mấy khi
Nửa ngày vui chuyện phiếm
Hiểu thêm đời thú ghê
Lên đường xin gửi lại
Thầy trúc lâm lời này".
 

          e. Cây Da Lách.
          Cho đến nay chưa ai phát hiện được cây Da Lách do ai trồng và trồng vào năm nào? Song các bậc cao niên ở Xuân An cho biết cây Da Lách có lịch sử từ mấy trăm năm trước.
          Cũng có người nói cây Da Lách có thể có trước chùa Phong Phạn và sau khi có bến đò Lách theo nhu cầu của người qua lại dừng chân trên bến đợi đò cần có cây cao bóng cả để nghỉ chân. Từ đó mới có cây Da Lách.
          Cách đây hơn 200 năm đại thi hào Nguyễn Du cuối thế kỷ 18 về ở ẩn ở Tiên Điền cũng đã từng lấy ngã ba Da Lách và cây Da Lách để làm điểm hẹn với các bậc tao nhân mặc khách.
                   "… Ai đến tìm đường nhờ chỉ hộ
                          Xóm đầu Hồng Lĩnh ấy nhà tôi".
          Trong những năm dài hoạt động yêu nước chống ách đo hộ của thực dân Pháp cây Da Lach sớm trở thành nơi liên lạc, nơi cất dáu tài liệu của nhiều thế hệ người xứ Nghệ, người Nghi Xuân. Trong chống Mỹ cứu nước  đã có biết bao đoàn quân và xe pháo nghỉ lại dưới tán cây Da Lách để chờ phà vượt Sông Lam.
          Cuối 1968 bom đạn giặc Mỹ đã đánh bật gốc cây Da Lách. Năm 1988 Đảng bộ và nhân dân Xuân An đã trồng lại cây Da Lách mới cạnh gốc cây Da cũ.
          2. Núi Lần và các di tích ở làng Khải Mông.
          - Núi Lần là đỉnh cao nhất trong cụm Núi Hồng Lĩnh ở Xuân An, núi có độ cao 175m nằm phía tây nam làng Khải Mông cũ là địa giới giữa 2 xã Tam Đăng hạ và xuân Viên với làng Khải Mông. Núi còn có tên là Lần Sơn, toàn bộ diện tích của núi rộng hơn 2km2, xưa cây cối rậm rạp, có nhiều gỗ quý và muông thú. Đây là ngọn danh sơn đi vào các sách địa chí xưa viết về Nghi Xuân  và Xứ Nghệ, trên núi có nhiều di tích  lịch sử văn hóa có giá trị như:
          - Lũy đá ông Ninh, Ông Ninh là Ninh Quận Công Trịnh Toàn chọn làm cứ điễm án ngữ phía nam Sông Lam trong công cuộc chống lại quân chúa Nguyễn mỗi lần kéo quân từ  Đàng Trong vượt qua Đèo Ngang ra đánh phá Đàng Ngoài của chúa Trịnh vua Lê giữa thế kỷ 17.
          a, Đền thờ Bảng nhãn Trần Bảo Tín trên núi Lần.
          Trần Bảo Tín đậu Bảng nhãn vào năm 1511 niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 đời vua Lê Tương Dực. Năm 1527 Mạc Đăng Dung chiếm ngôi vua Lê, ông cùng con gái là bà Trần Thị bất hợp tác với nhà Mạc  về quê hương ở làng Khải Mông cùng dân làng lên núi Lần khai đất lập vườn, tại đây ông dựng nhà mở lớp dạy học  cho con em trong vùng, giao du với nhiều quan lại nhà Lê ở xứ Nghệ không theo Mạc bàn tính việc khôi phục lại nhà Lê.
          Sau ngày ông mất, dân làng Khải Mông lập đền thờ ông ngay trong vườn trên núi Lần thờ làm thánh hoàng. Ông cũng được nhà Lê sau ngày dẹp Mạc phong phúc thần và chức Thượng Thư.
          Trải qua năm tháng của nắng mưa, bão lụt, nhà thờ ông trở thành phế tích. Năm 1999 được sự hỗ trợ của D 31 đặc công Quân khu IV nhân dân làng Khải Mông đã sữa lại đền thờ, mở lại lối di lên đền và xây lại một am nhỏ trên nền cũ. Hàng năm vào ngày 25/10 ÂL ngày giổ quan Bảng nhãn Thượng thư Trần Bảo Tín và các ngày lễ, tết, ngoài gia tộc họ Trần còn có nhiều người trong và ngoài Thị trấn Xuân An đến hương khói.
          Ngoài các di tích lịch sử văn hóa, dưới chân núi Lần còn có những di tích như: Phía nam núi là Truông màn trướng, dưới chân truông có đầm rộng 1 mẫu trung bộ ( 5000m2) nước rất trong. Tương truyền đầm rất sâu, có hang xuyên qua núi thông ra Sông Lam,nên mỗi khí nước đầm nỗi sóng ầm ào là trời sắp mưa to, xa xưa có thuồng luồng xuất hiện trong đầm và ra sông. Phía Bắc núi giáp với núi Lách có truông Trâu. Thường ngày đi qua truông nếu ấn chân mạnh có tiếng dội từ lòng đất lên thình thình. Hiện tượng này chứng tỏ hang xuyên dưới lòng đất.
b, Chùa Thanh Lương.
Thanh Lương là ngôi chùa cổ có từ thời Lý có tên gọi là “ Quốc linh tự” và “ Thanh Lương tự”. Chùa có hai toà thượng và hạ, các vua thời Lý mỗi lần kinh lý vào Hoan Châu đều đến chùa thắp hương, vãn cảnh, các sự trụ trì ở chùa được vua nhà Lý cử về. Có ba vị hoà thượng thọ trên 100 tuổi, nay ở chùa còn 3 am lớn là nơi lưu giữ hài cốt của ba vị. Chùa có nhiều tượng phật bằng gỗ, các bản gỗ khắc kinh pháp từ thời Lý.
Chùa có một chuông đồng pha vàng nặng 120kg, chiếc chuông này tháng 9/1945 nhân dân khải mông đã hiến cho tuần lễ vàng. ( Có nguồn tin chuông này còn ở Pari nước Pháp).
Trước 1945 là nơi liên lạc, hội họp, cất dấu tài liệu của chi bộ Cộng sản ở Khải Mông. Sau 1945 nơi hội họp dân, luyện tập dân quân là nơi hợp tử các chùa, đền của xã Giang Nam.
Trong chiến tranh chùa bị đánh phá thành phế tích. Đặc biệt nhà sư cuối cùng trù trị chùa Thanh Lương, thờ sau 8/1945 đã hoàn tục làm Chủ tịch Hội Liên Việt xã Giang Nam ( 1946 – 1949).
Nay chùa đã được khôi phục bước đầu, đã được công nhận di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh.
          3. Các di tích khác.
          Trên đất An Lạc - Khải Mông xưa còn có những di tích lâu đời có giá trị văn hóa lịch sử như:
          a. Đền thờ danh tướng Đặng Đình An ở Trung Lao.
          Trung Lao trước 1945 là một làng của xã An Lạc sau đó mới cắt về cho xã Tam Xuân Hạ  nay là xã Xuân Hồng.
          Đặng Đình An là người làng Thượng Thôn đến ở làng Trung Lao. Ông xuất thân trong một gia đình làm tướng đánh giặc cứu nước, ông nội cũng tước hầu chức tả hiệu điểm. Lên 16 tuổi Đặng Đình An đã nổi tiếng võ nghệ cao cường. Năm 1623 có công đánh giặc nhà Hán giữ gìn  biên cương được triền Vĩnh Tộ nhà Lê phong chức cấm y vệ, đô chỉ huy sứ tước Khuông quận công. Ông là người được hưởng tước quận công sớm nhất ở Nghi Xuân dưới chế độ phong kiến.
          Đền thờ ông ở Trung Lao là một di tích lịch sử văn hóa được tỉnh xếp hạng, ở đây có bức tượng quý hiếm tạc chân dung Đặng Đình An trên đá thanh, giá trị lịch sử văn hóa ở bức tượng có phù điêu chạm  nổi hình con vật Makara là một biểu tượng huyện thoại văn hóa Chăm ( Chiêm Thành) nói lên mối giao lưu giữa văn hóa Đại việt và văn hóa Chăm từ xa xưa.
          Đặng Đình An là một người có công với dân An Lạc, tương truyền sinh thời ông đã bắt voi đào đất đá làm mương máng dẫn nước vào ruộng cho dân Kẻ Lau, Kẻ Lách cày cấy. Sau ngày về trí sỹ ở quê nhà ông có công  vận động cả huyện Nghi Xuân tu bổ đền huyện ở Xuân Giang.
          Ghi nhớ công lao của Đặng Đình An  sau ngày ông mất dân xã An Lạc đã góp công của lập miếu thờ ông làm Thánh Hoàng.
          b. Nhà thờ giáo xứ Gia Hòa.
          Đây là nhà thờ công giáo có đầu tiên to, đẹp nhất ở huyện Nghi Xuân.
          Nhà Thờ có từ năm 1855 bằng gỗ,  lợp tranh. Đầu thế kỷ XX được xây dựng bằng gạch ngói, nay nhà thờ được xây dựng lại to đẹp ,hoành tráng.
          Ngoài các di tích trên ở Thị trấn Xuân An xa xưa trên đất An Lạc, Khải Mông còn có nhiều đình làng, đền thờ thành hoàng, am miếu ….ở các làng.
          IV. TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA, YÊU NƯỚC CHỐNG NGOẠI XÂM CỦA NHÂN DÂN THỊ TRẤN XUÂN AN.
          Thị trấn Xuân An tuy mới thành lập được hơn 10 năm, nhưng nhân dân An Lạc và Khải Mông lại giàu truyền thống Văn Hóa, yêu nước  chống ngoại xâm.
          1. Truyền thống văn hóa phong phú.
          Ngoài các di tích lịch sử văn hóa, khảo cổ có giá trị (mà phần III) ở trên đã đề cập. Nhân dân thị trấn Xuân An còn có bề dày khá phong phú vê đời sống văn hóa khác như: Vốn văn nghệ dân gian đa dạng bao gồm: Ca dao, tục ngữ, hò vè, truyện thần thoại, truyền thuyết, truyện tiếu lâm, các làn điệu dân ca xứ Nghệ như hát dặm, hát đò đưa, hát phường vải và các  lễ hội dân gian khác.
          Trước đây ở Xuân An ở các làng còn có phường chèo diễn các tích Lưu Bình Dương Lễ, Kim Trọng, Thúy Kiều.
          Kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian ấy phản ánh sâu sắc thế giới tâm linh, cuộc sống muôn màu muôn vẻ của người dân Kẻ Lau, Kẻ Lách, Khải Mông xưa nó còn truyền lại cho các thế hệ  người Xuân An kinh nghiệm xử thế, kinh nghiệm sản xuất và nhiều mặt trong đời sống tinh thần.
          Truyền thống học hành khoa bảng của người dân Xuân An  được sớm hình thành và phát triển  liên tục cho đến ngày nay.
          Tiêu biểu và mở đầu cho truyền thống ấy là Bảng nhãn,Thượng thư Trần Bảo Tín, ông không chỉ là khai khoa đầu tiên ở Khải Mông, An Lạc xưa. Năm 1511 trong kỳ thi đình vào năm Hồng Thuận thứ 3 Trần Bảo Tín đã đậu. " Nhất giáp đệ nhị danh" mà là người  có học vị cao nhất trong các vị khoa bảng của huyện Nghi Xuân. Ông cùng là người duy nhất ở Xuân An được khắc tên, quê quán, học vị ở các bia tiến sỹ đặt tại Văn miếu Hà Nội.
          Nối tiếp truyền thống khoa bảng của Trần Bảo Tín trong các kỳ thi hương thời Lê - Trịnh và Nguyễn về sau, riêng làng Khải Mông có 7người đậu cử nhân đó là các ông:

          1. Nguyễn Phương Chinh
          2. Trần Đình Vận
          3. Nguyễn Hữu Điển
          4. Hà Sỹ Tuấn
          5. Nguyễn Đăng Nho
          6. Nguyễn Cơ Lương
          7. Lê Nguyên Hy

 

          2, Truyền thống yêu nước chống ngoại xâm.
          Trong thời kỳ Bắc thuộc, khởi nghĩa của Mai Thúc Loan  ( 713-722) diễn ra trên hai tỉnh Nghệ Tĩnh trung tâm là vùng Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi Lộc ở Nghệ An  và Nghi Xuân, Đức Thọ, Can Lộc ở Hà Tĩnh. Vùng Hồng Lĩnh từ Kẻ Lách, Kẻ Lau vào Hương Tích trở thành tiền đồn của nghĩa quân ở phía nam bảo vệ cố đô của vua Mai Hắc Đế ( Nam Đàn). Điều chúng ta có thể suy đoán một cách khoa học là những người dân ở Kẻ Lau, Kẻ lách thuở đó đã có mặt trong nghĩa quân của vua Mai.
          Cuối thế kỷ 13 quân Nguyên từ phương Bắc đã ba lần ào ạt kéo sang xâm lược nước ta. Trong đó có lần cánh quân của chúng vượt biển đánh chiếm Chiêm Thành ở phía Nam rồi tổ chức vu hồi bằng đường biển, theo cửa Đan Nhai (Hội Thống) vào sông Lam hòng bóp chết cánh quân phòng ngự của vua quan nhà Trần do Trần Quốc Khang chỉ huy đang ở Thanh Nghệ, nhưng chúng đã bị quan quân họ Trần cùng nhân dân hai bờ sông Lam hết lòng giúp đỡ đã đập tan cánh quân vu hồi ấy. Hẳn trong những năm tháng ấy có sự đóng góp của người dân kẻ Lau, kẻ Lách, Khải Mông.
          Trong gần 1000 năm giữ nước của nhân dân ta từ Đinh, Lê, Lý, Trần đến Nguyễn  biết bao lần trên đất Xuân An đã chứng kiến bao chiến tích oai hùng chống các kẻ thù phương Bắc và phương Nam trên hai bờ sông Lam.
          Khi Quang Trung Nguyễn Huệ trên đường hành quân ra Bắc Hà để tiêu diệt 20 vạn quân Thanh 1789 đã dừng quân tại hai bờ sông Lam để tuyển thêm 5 vạn người xứ Nghệ lập thành trung quân. Chắc chắn có nhiều trai tráng ở An Lạc Khải Mông đã đầu quân. Nguyễn Huệ - Quang Trung trong những ngày đó đã từng neo thuyền ở bến Ngự dưới chân núi Phong Phạn lên vãn cảnh Sông Lam núi Hồng đã để lại bút tích với bài thơ ca ngợi cảnh kỳ thú ở An Lạc:

          "Phong Phạn thiên thu truyền cựu tích
          Ngự thuyền Lam thủy đãi thiên quân
          Thị không, thị sắc quy như tại
          Vô ngã vô nhân như kiến lai
          Nhân dân Phong Phạn chùa Linh Tự
          Vạn mã ngàn ngôi sóng Ngự Bình (1)"

          Tiêu biểu cho sự nghiệp đánh giặc giữ nước dưới các triều đại phong kiến của người dân An Lạc là Đặng Đình An - Khuông quận công, người có nhiều công lao suốt 60 năm cầm quân đánh giặc giữ nước suốt ba triều vua Lê chúa Trịnh ở thế kỷ 17. Công lao của ông được khắc vào bia đá nay còn ở khu đền thờ ông tại làng Trung Lao:
          “… Chế độ vững vàng, làng mạc yên tĩnh, dân sự đồng tình lập thành quy ước. Vời vợi hiển thần, uy nghi bền đá. Năm tháng phụng thờ làm lễ có tấu văn, chiêng trống vang lừng, lễ nghi tôn kính. Muôn đời truyền tụng, một khắc không quên, soi xét phân minh, đuổi Hán mây tan, dựng cờ trưng tập, ngọc vàng mài dũa, đục đá khắc bia, trời cao đất dày, đều thảy chuyển động…”

          (1) Tài liệu của Bảo tàng Hà Tĩnh lưu ở UBND thị trấn Xuân An. 
          Từ ngày thực dân Pháp đặt ách thống trị ở nước ta, cùng với đồng bào cả nước, các tầng lớp nhân dân An Lạc, Khải Mông liên tục kế tiếp nhau có mặt chống đế quốc, phong kiến trong những năm nước mất nhà tan cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
          Ngay sau khi vua Hàn Nghi từ Cam Lộ Quảng Trị ra Sơn Phòng Phú Gia (Hương Khê) hạ chiếu Cần Vương lần thứ 2 (9/1885) nhiều trai tráng ở Xuân An như các ông: Nguyễn Chánh Quân, cố Bang, cố Điền, cố Uy, ông Huy, Nguyễn Thế ở Thượng Thôn, Phạm Khắc Xương, ông Vị, ông Lê ở Trung Lộc, Lê Nhơn ở Khải Mông đã có mặt dưới cờ nghĩa  của Hà Văn Mỹ, Nguyễn Công Trường ( Quê Tiên Điền, Uy viễn) là thủ lĩnh của Nghi thứ, một trong 15 quân thứ của phòng trào Cần Vương do cụ Phan đình Phùng lãnh đạo. Trong 10 năm tồn tại và chiến đấu sống mái với  quần thù của nghĩa quân Nghi thứ đóng đại bản doanh trên núi  Hồng Lĩnh đã được sự cưu mang, góp tiền, gạo, trâu bò,lợn gà của của người dân Kẻ Lau, Kẻ Lách, Trung Lao, Khải Mông. Nhiều nghĩa sĩ Cần Vương quê Xuân An, đã được tin cậy giao chỉ huy các đội nghĩa binh tiêu biểu như Cố Cuồn tức Nguyễn Thế ở Thượng Thôn được phong chức lãnh binh, Phạm Khắc Xương ở Trung Lộc được phong chức quản, ông Lê Nhơn ở Khải Mông được tin cậy giao trọng trách chỉ huy đồn Cần Vương ở chợ Chế ( Xuân Lam). Đây là một đồn án ngữ vị trí tiền tiêu bảo vệ căn cứ địa Hồng Lĩnh.Cụ Lung ở Thượng Thôn đã theo cụ Phan Đình Phùng lên núi Vũ Quang, khi bí mật về thăm nhà đã bị địch giết hại ở Cầu Rong.
          Sau ngày phong trào Cần Vương thất bại, cuộc chiến đấu của phong trào hậu Cần Vương còn kéo dài từ 1896 đến 1920 mà cốt cán là các ông Ngô Quảng, Nguyễn Trang, Nguyễn Hét. Núi Hồng Lĩnh và các làng ven núi, trong đó có các làng Trung Lao, Thượng Thôn, Trung Lộc, Khải Mông đã từng cưu mang che dấu ba ông mỗi lần bị địch truy lùng phải lánh nạn trong nhà dân.
          Hưởng ứng phong trào Đông Du (1906) của Cụ Phan Bội Châu đề xứng và tổ chức ở Xuân An có ông Trần Sỹ Đức, một thanh niên giàu lòng yêu nước đã tham gia và xuất dương sang Nhật. Tiếp đến mùa hè 1908 nghe theo tiếng gọi tha thiết của các ông Nguyễn Hằng Chi ( ích Hậu Can Lộc) và Trịnh Khắc Lập ( Xuân Thành) một số dân nghèo ở Xuân An đã tham gia phong trào chống thuế. Ngày 25/5/ÂL năm Mậu Thân ( 6/1908) hơn 30 nông dân nghèo ở các làng trong 2 xã An Lạc và Khải Mông do các ồng: Bùi Táo, Nguyễn Nghi và Nguyễn Gia dẫn đầu, từ mờ sáng đã cơm gói, mới đùm, nón cời, tơi rách kéo xuống huyện lỵ Nghi Xuân cùng 300 nông dân nghèo các xã trong huyện, bao vây huyện đường, bắt tri huyện Lê Trần Thụy rồi kéo nhau vào thị xã Hà Tĩnh để hội quân với các huyện bạn biểu tình đồi bọn cầm đầu bộ máy thông trị giảm sưu thuế cho nông dân. Đây là cuộc biểu tình đấu tranh trực diện với quần thù lần đầu tiên diễn ra ở Nghi Xuân và Hà Tĩnh.
          Đoàn biểu tình vừa đi đến Cầu Cao trên đường quốc lộ số 1 nơi giáp giới 2 xã Đậu Liêu và Thổ Vượng ( Can Lộc ) thì bị tên giám binh Hà Tĩnh dẫn lính từ thị xã ra chặn lại, chúng bắt ông Trịnh Khắc Lập và giải tán cuộc biểu tình.
          Chịu ảnh hưởng của Hội Phục Việt sau này là Đảng Tân Việt ( 1928) phong trào yêu nước ở An Lạc, Khải Mông bước đầu có những biến chuyển mới như: Một số nhà nho, thanh niên, học sinh lưu truyền thơ ca yêu nước của cụ Phan Bội Châu, đọc báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Đặc biệt ở Trung Lộc và Thượng Thôn, Khải Mông những người nghèo đã lập ra phe "Hộ" để chống lại sự áp bức, bóc lột của phe "Hào".
 

CHƯƠNG II.
CÁC CHI BỘ CỘNG SẢN XÃ AN LẠC VÀ XÃ KHẢI MÔNG, LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH TRONG THỜI KỲ 1930 -1945.
––––––––

 
            I. SƠ LƯỢC VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ XÃ HỘI AN LẠC VÀ KHẢI MÔNG TRƯỚC 1930.

          Trước và sau đại chiến thế giới lần thứ I ( 1914 - 1918) thực dân Pháp tiến hành hai lần chương trình khai thác thuộc địa ở Đông Dương nhằm bòn rút tiền bạc và của cải của nhân dân ta và hai nước Lào, Miên làm giàu cho bọn tư bản tài chính ở chính quốc. Tuy trải qua hai lần thực hiện chương trình ấy ở Xuân An cũng như các nơi khác trong huyện Nghi Xuân  tỉnh Hà Tĩnh  tình hình kinh tế xã hội và đời sống nhân dân ta không có gì được cải biến; Ngược lại ách áp bức tàn bạo và sự bóc lột nặng nề của chúng ngày càng đè năng lên cuộc sống của nhân dân ta.
          Sau đại chiến thứ nhất, khi tiếng súng Cần Vương đã ngớt  và các hoạt động của Quang Phục hội do cụ Phan Bội Châu  bị đàn áp khốc liệt, thực dân pháp ráo riết củng cố bộ máy tay sai từ tỉnh xuống tận thôn. Những người tỏ ra ủng hộ các phong trào yêu nước hoặc bất lực trong việc đàn áp nhân dân đều bị thanh lọc. Những tên có nợ máu với nhân dân, tỏ ra mẫn cán với nước " Đại Pháp" được cất nhắc.
          Bộ máy hào lý ở làng xã từ sau "  Cái cách hương chính" của tên vua bù nhìn Khải Định được sắp xếp lại và tăng thêm lực lượng. ở tổng có chánh, phó tổng, chánh phó đoàn phu, ở các làng ngoài lý trưởng chúng thành lập thêm ngụ hương gồm 5 tên giúp việc hương bộ, hương bản, hương mục, hương dịch  và hương kiểm, Ngoài ra mỗi làng còn lập đội tuần phu từ 7 - 10 người. Bọn này trực tiếp bắt bớ,  đánh đập dân làng theo lệnh của lý trưởng.
          Đời sống nhân dân ngày càng bị bần cùng hóa.
          - Nạn mù chữ và dịch bệnh hoành hành.
          - Nạn sưu cao thuế nặng, phụ thu, lạm bổ trong các kỳ sưu thuế.
          - Nạn bắt phu, bắt lính, bắt dân tiêu thụ rượu cồn và cấm dân nấu rượu.
          - Nạn bao chiếm ruộng đất của nhà giàu và tố cáo, tức nặng.
          Đất An Lạc, Khải Mông xưa vốn có tiếng là đất học hành, khoa bảng. Nhưng từ khi thực dân Pháp bãi bõ chế độ thi cử Hán học ( 1919) mãi tới hơn 20 năm sau ở Xuân An mới có trường học với hơn 40 học  sinh, đa số là con em nhà giàu do thầy giáo Gia người Đức Thọ phụ trách.
          Do nền giáo dục không được chăm lo phát triển, nên trước 1945 hơn 95% người dân Xuân An bị mù chữ. Số người đọc thông viết thạo chữ   quốc ngữ  ở mỗi làng chưa đếm đủ 10 ngón tay. Cá biệt có họ không có ai biết chữ.
          Việc chữa bệnh và phòng dịch chăm sóc sửc khỏe cho dân không có ai lo lắng. Người dân đau ốm phải nhờ các thầy lang cho đơn và cắt thuốc  hoặc mời thầy cúng về đuổi ma khá phiền phức tốn kém. Vì vậy dốt nát và bệnh tật là miếng đất màu mỡ cho nạn mê tín dị đoan phát triển. Năm 1928 nạn dịch tả, sốt rét hoành hành, riêng xã An Lạc có hơn 100 hộ có người bị bệnh, hàng chục người đã chết thê thảm.
          Trước năm 1945 người dân bị điêu đứng bởi nạn sưu cao, thuế nặng. Sưu tức là thuế đánh vào nam công dân từ 18 tuổi đến 59 tuổi gồm hai hạng: tráng đinh và bần đinh. Năm 1915 tráng đinh phải nạp 1 đồng 5 hào, bần đinh nạp 6 hào, nhưng đến năm 1925 tăng lên 2 đồng 5 hào và 1 đồng 2 hào ( theo thời giá gạo 100kg chỉ có 2 đồng bạc Đông Dương).
          Thuế bao gồm nhiều loại: Thuế sông, thuế chợ, thuế đò…nhưng nặng nề nhất là thuế điền thổ. Thời Pháp thuộc thuế ruộng chia ra 4 hạng, thuế đất gồm 6 hạng. Năm 1916 thuế ruộng đất bình quân ở Hà Tĩnh là 0 đồng 55 xu một mẫu, đến năm 1944 tăng lên gấp 4 lần.
          Năm 1924 lấy cờ mừng “Tứ tuần đại khánh” vua Khải Định còn ra chỉ dụ tăng thuế điền thổ lên 30% để bòn rút sức dân nghèo. Ngoài ra mỗi thời kỳ thu sưu, thu thuế bọn hào lý ở làng còn đặt ra lễ phụ thu để lạm bổ cho đầu đỉnh và đầu mẫu để chúng thao túng chè chén. Vì vậy mỗi lần thu thuế xóm trên làng dưới trong xã trống thúc mõ dồn, những người thiếu thuế phải ra đình làng để hào lý cùm, kẹp, đánh đập. Nhiều người phải " Bán vợ đợ con" Bán cả đồ thờ  gia truyền để cung đốn cho chúng nên có cảnh:
                   " Nửa đêm trống thúc, mỏ dồn
                   Sân đình đầy lính, đường thôn máu đầy" ( Tố Hữu ).
          Thời thuộc Pháp hàng năm chúng đều tuyển mộ trai tráng các làng sung vào các sắc lính và phân bổ cho các làng, cứ 6 đinh phải có 1 người sung lính. Nhưng khi có chiến tranh thì tăng lên gấp đôi. Trong các năm từ 1914 - 1918 hàng chục trai tráng trong xã An Lạc và Khải Mông bị bắt lính; một số người phải gia nhập sắc lính khố đỏ ( lính chiến đấu) nên bị đẩy sang mẫu quốc ( nước Pháp) làm bia đỡ đạn trong chiến tranh Pháp - Đức.
          Để có nhân công rẻ mạt lao động khổ sai trên các công trường làm đường, đào sông, mở rộng đồn điền. Từ 1914 về sau năm nào thực dân Pháp cũng ra lệnh cho Nam triều ra sắc lệnh bắt phu.
          Ở Xuân An, trước năm 1930 nhiều người dân phải đi phu khi xây dựng đường số 7, số 8 một số người đã bỏ xác nơi rừng sâu nước độc ở Mường xén ( Kỳ sơn - Nghệ an), ở Kim Cương ( Hương Sơn - Hà Tĩnh ) hoặc Lạc Xao, Khăm cợt ( Trung Lào)… có người vì quá bần cùng phải nhắm mắt đi phu đồn điền ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên chịu số phận thê thảm: " Bán thân đổi lấy đồng xu" hầu hết họ ra đi mà không có ngày trở về với vợ con " thịt xương vùi lấp cao su mấy tầng".
          Ngang ngược và hết sức bất công thực dân Pháp thực hiện chủ trương bắt ép lý tưởng, chánh tổng phải nhận rượu Cồn của hãng Phông Ten về làng, buộc nam công dân 18 tuổi trở lên phải mua, có năm mỗi người 8 lít, nhưng nhân dân ta nấu rượu để cúng tổ tiên, ông bà hay, tang, hỷ lại bị cấm. Hễ ai nấu chúng cho là phạm pháp vì nấu "rượu lậu" kể cả những người làm men rượu cũng chung số phận tù đày và khuynh gia bại sản khi lính đoan về làng bắt được quả tang đang nấu rượu, làm men. Ở Xuân An có ông Sử vì nấu rượu phạm điều quốc cấm mà phải đi tù và chết ở nhà lao Hà Tĩnh trước 1940.
          Ruộng đất ở Xuân An trước 1930 tuy xấu song diện tích bình quân khá cao trên 3 sào mỗi nhân khẩu. Nhưng trên 80% nông dân lại thiếu ruộng cày, các hộ cố nông phải đi ở làm thuê vì không có ruộng đất. Tình trạng người cày thiếu ruộng và không có ruộng đất là hậu quả của nạn bao chiếm ruộng đất của nhà giàu và hào lý, quan lại. Trong khi đó số hộ nhà giàu và hào lý ở An Lạc, Khải Mông chỉ có gần 10% số hộ lại chiếm đến 40% ruộng đất ở các làng. Ruộng nhà chung và ruộng công điền chiếm 25% diện tích. Hơn 90% hộ nông dân chỉ còn 35% số ruộng đất còn lại.
          Đã thế, năm 1923 vua Khải Định còn ra dụ: ngày 4/6 ấn định một số quy tắc sử dụng công điền ở các làng xã tạo điều kiện thuận lợi cho nhà giàu, hào lý và quan lại thao túng như:

          - Cho thuê hoặc bán đoạn để sung công quỹ ở làng.
          - Trích lại để các làng, tổng làm ruộng cúng tế hàng năm.
          - Trích làm ruộng dưỡng lão, binh điền, quan viên, học điền.

          Không chỉ có nhà giàu trong hai xã như: Chánh Lược, Kim Tồn, Trần Ngoạn.v.v… chiếm từ 10 mẫu đến 30 mẫu mà có một số nhà giàu ở Nghệ An (Hưng Lợi) và các nơi khác trong huyện  như Thị Lựu (Tiên Điền) Châu Dực (Xuân Hồng) cũng đến chiếm và phát canh thu tô hàng chục ha ruộng ở Xuân An.
          Những chính sách bất công và bóc lột nặng nề về kinh tế xã hội của thực dân Pháp và phong kiến nhà Nguyễn đã xô đẩy người dân cày An Lạc, Khải Mông vào con đương  cùng cực, nghèo khổ. Hơn 200 hộ nông dân phải cày ruộng rẽ, vay nợ lãi chịu nặng nề về tô tức, hơn 100 người phải cày thuê cuốc mướn, đi bốc vác, ở Vinh - Bến Thủy, gần 100 hộ có người phải bỏ làng ra đi chịu cảnh tha phương cầu thực.
          Hậu quả tất yếu của tình hình ấy đã làm cho sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, yêu cầu cấp bách của nhân dân là " người cày có ruộng" đã trở thành nguyện vọng nóng bỏng của dân cày. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta chủ yếu là nông dân đối với thực dân, phong kiến ngày càng sâu sắc không thể điều hòa.

          II. CÁC CHI BỘ AN LẠC VÀ KHẢI MÔNG RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH TRONG THỜI KỲ 1930- 1931.
          1. Quá trình thành lập các chi bộ Cộng sản ở hai xã Khải Mông và An Lạc.

           Đến giữa năm 1931 toàn Đảng bộ Nghi Xuân có 10 chi bộ với 71 Đảng viên (1), tại thời điểm này ở xã Khải Mông và An Lạc mới có chi bộ,

         a. Chi bộ Khải Mông:

          Cuối 1930 đồng chí Trần Đình Luyện huyện ủy viên được phân công về Khải Mông Tiên cầu xây dựng cơ sở đảng và các tổ chức quần chúng.
          Sau một thời gian chi bộ ghép Tiên Cầu Khải Mông được thành lập vì 2 xã này cùng trong tổng Xuân Viên. Bí thư chi bộ đầu tiên là Lê Tính riêng xã Khải Mông có 2 đảng viên là Hà Trình bí danh là Lịch và Lê Danh bí danh là Đích sinh hoạt trong chi bộ ghép.
          Đầu năm 1931 ở Khải Mông kết nạp thêm một đảng viên mới là đồng chí Lê Hân nên đến tháng 4/1931 chi bộ Khải Mông được tách khỏi chi bộ ghép, gồm 3 đảng viên do đồng chí Hà Trình làm bí thư chi bộ.

(1) Lịch sử Đảng bộ Huyện Nghi Xuân; trang 61; Xuất bản năm 2000.

          b. Chi bộ An Lạc.
          Cuối năm 1930 đồng chí Lê Nhạc đảng viên, cán bộ huyện ủy Nghi Xuân người xã Tiên Cầu được cử về An Lạc xây dựng cơ sở đảng đã kết nạp hai đảng viên là Nguyễn Liệu bí danh là Thuật và Đậu Cảnh bí danh là Đại Lượng, cả hai người sinh hoạt ghép với chi bộ Uyên Trừng ( Giằng) do Nguyễn Liệu người An Lạc làm bí thư.
          Đầu 1931 ở An Lạc  phát triển thêm một đảng viên mới là Nguyễn Đạt bí danh là Tôn. Đến tháng 7/1931 chi hội An Lạc tách khỏi chi bộ ghép, hoạt động độc lập, gồm 3 đảng viên bí thư chi bộ là Nguyễn Liệu.
          Như vậy thời kỳ 1930 - 1931 thị trấn XuânAn có 2 chi bộ cộng sản là Chi bộ Khải Mông thành lập tháng 4/1931 do Hà Trình làm bí thư và Chi bộ An Lạc thànhlập từ tháng 7/1931 do Nguyễn Liệu làm Bí thư, mỗi chi bộ đều có 3 đảng viên.
          2. Các Chi bộ Khải Mông và An Lạc lãnh đạo nhân dân đấu tranh trong cao trào Cách mạng 1930 - 1931.
          Do vị trí địa lý ở nơi địa đầu của đất Nghi Xuân, giáp ranh thành phố Vinh - Nghệ An nên chi bộ Nghi Xuân vừa thành lập trong tháng 4/1930 đã phân công các đồng chí Ngô Hữu Yên Bí thư và Trần Mạnh Táo chi ủy viên về An Lạc Khải Mông bắt mối liên lạc với những thanh niên giàu lòng yêu nước, bước đầu xây dựng cơ sở chính trị ở một địa bàn trọng yếu. Một số thanh niên nông dân nghèo ở An Lạc như Nguyễn Liệu, Đậu Cảnh, Nguyễn Đạt và Hà Trình, Lê Danh, Lê Hân ở Khải Mông họ là những hạt giống đỏ của phong trào yêu nước ở địa phương.
          Thực hiện chỉ thị của tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh về việc kỷ niệm Quốc tế lao động 01/5/1930. Chi bộ Nghi Xuân quyết định treo cờ Đảng trên núi Cơm và rải truyền đơn từ cây Da Lách dọc đường tỉnh lộ xuống Hội thống. Nhiệm vụ treo cờ Đảng trên núi Cơm được giao cho ba cốt cán ở xã An Lạc là Nguyễn Liệu, Đậu Cảnh và Nguyễn Đạt, việc rải truyền đơn từ Da Lách xuống Tiên Cầu được phân công cho Hà Trình, Lê Danh, Lê Hân ở Khải Mông.
          Mờ sáng ngày 01/5/1930 hơn 500 công nhân và nông dân Vinh - Bến Thủy đang rầm rộ biểu tình trước cổng nhà máy Diêm, nhà máy gỗ Bến Thủy và bà con An Lạc, Khải Mông vô cùng hân hoan  khi nhìn thấy trên đỉnh núi Cơm ngọn cờ đỏ búa liềm của Đảng Cộng sản tung bay trước gió.
          Trong lúc nhân dân hả lòng, hả dạ thì bọn cầm quyền ở Nghi Xuân hốt hoảng, lo sợ. Tên tri huyện cưỡi ngựa vội vã lên An Lạc đốc thúc hào lý phải bằng mọi cách hạ lá cờ Cộng sản xuống khỏi đỉnh núi Cơm.
          Nhưng bọn hào lý nhát gan ở An Lạc không dám leo lên núi hạ cờ. Ngọn cờ ấy mãi hai ngày sau mới bị hạ xuống do bọn lính Lê Dương theo lệnh của Công sứ Nghệ An  sai phái sang  An Lạc làm nhiệm vụ.
          Sau ngày chi bộ ghép ở Tiên Cầu và Uyên Trừng  được thành lập, cả hai xã An Lạc, Khải Mông đã có mỗi xã hai đảng viên Cộng sản.
          Được các Đảng viên vận động và nêu gương đi đầu, mờ sáng ngày 01/8/1930 gần 60 nông dân Khải Mông  và An Lạc đội ngũ chỉnh tề, hối hã kéo xuống Bãi Rộng ở Cổ Đạm ( Xuân Hoa), cùng với 500 nông dân ba tổng Xuân Viên, Phan Xá, Cổ Đạm dự mít tin kỷ niệm ngày Quốc tế chống chiến tranh.
          Sau hai sự kiện lịch sử ngày 01/5 và ngày 01/8/1930, dưới sự lãnh đạo của các Chi bộ, phong trào đấu tranh của nông dân An Lạc và Khải Mông phát triển ngày một lớn mạnh, thu hút hàng trăm nam, nữ thanh niên nông dân tham gia ngày càng sôi nổi.
          Hòa chung với khí thế của các làng xã trong huyện những tháng cuối 1930 và suốt năm 1931, hàng trăm lượt nông dân ở Xuân An đã hăng hái tham gia nhiều cuộc biểu tình của huyện, tổng tổ chức. Sôi nổi và khí thế nhất là các cuộc biểu tình qui mô toàn huyện  như:
          - Ngày 22/12/1930 hơn 100 nông dân An Lạc, Khải Mông kéo xuống Bãi rộng ở Cổ Đạm mít tinh kỷ niệm Quảng Châu Công xã, tỏ tình đoàn kết và ủng hộ Đảng cộng sản và công nông Trung Quốc.
          - Ngày 01/5/1931 hơn 300 nông dân An Lạc, Khải Mông  nô nức tham gia cuộc biểu tình toàn huyện kỷ niệm ngày Quốc tế lao động.
          Từ sáng sớm mọi người tập trung ở Đồng Nhôn xã An Lạc hội quân với gần 1000 người của hai Tổng Xuân Viên và Tam Xuân kéo xuống huyện lỵ Nghi Xuân, cùng với hơn 1000 người của ba tổng: Cổ Đạm, Phan Xá và Đan Hải.Mọi người hô vang các khẩu hiệu.

          " Giảm sưu cao thuế nặng, chia lại công điền cho nông dân
          - Ngày làm 8 giờ, không được đánh đập cúp phạt tiền công thợ thuyền.
          - Phản đối khủng bố trăng…".

          - Trước uy thế của quần chúng tri huyện Nghi Xuân và bọn nha lại khiếp vía, hốt hoảng vội ôm sổ sách, triện đồng và tiền bạc chạy trốn khỏi huyện đường, tìm cách bí mật chạy lên đồn binh ở xã Khải Mông cầu cứu. Hơn 2000 người tham gia biểu tình như nước vỡ bờ ào ạt tiến vào làm chủ huyện đường trước sự bất lực của tên Đề lại và mấy tên lính lệ.
          Được tin cấp báo, tên Paven đồn trưởng đồn Khải Mông đang dẫn quân đi khủng bố các làng ở Tam Xuân hạ vội vã trở về huyện đường. Nhưng người  chỉ huy cuộc biểu tình ấy là đồng chí Phan Hảo quê ở làng Đông Hội Tổng Phan Xã ( nay là Xuân Thành) đã nhạy bén cho đoàn biểu tình của các tổng mau lẹ giải tán.
          3. Các Chi bộ lãnh đạo nhân dân chống khủng bố trắng, bảo vệ phong trào cách mạng.
          Để nhanh chóng chặn đứng làn sóng đấu tranh của nông dân Nghệ Tĩnh đang dâng lên như vũ bão, bọn thống trị đầu 1931 hốt hoảng đem các sắc lính Nam triều và lính Lê Dương do các sỹ quan người Pháp, trực tiếp chỉ huy kéo về khắp các huyện ở Hà Tĩnh lập đồn binh ngày đêm đàn áp, khủng bố.
          ở An Lạc tháng 02/1931 chúng cho 25 tên lính khố xanh  do tên quan một Xe người Pháp chỉ huy và tên cai Cúc người Việt kéo về đóng quân ở chùa Phong Phạn ( 20 tên) và nhà thờ thiên chúa giáo Gia Hòa ( 5 tên).
          Đến tháng 4/1931 chúng cho tên quan ba Paven dẫn thêm 30 lính LêDương từ thị xã Hà Tĩnh hội quân với bọn trước đó lập đồn binh ở làng Khải Mông. Đồn binh Khải Mông lúc này có gần 60 tên, là một trong ba đồn binh ở Nghi Xuân và cũng là đồn đông lính nhất ( 2 đồn khác là đồn chợ Củi và đồn Cổ đạm).
          Cùng với việc kéo lính về đóng đồn bọn Nam triều còn theo lệnh của khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ ráo riết củng cố, tăng cường lực lượng cho bộ máy tay sai, đàn áp nhân dân .
          Chúng lập ra hệ thống bang tá khắp nơi trong 5 tổng ở Nghi Xuân, tăng gấp 3 số lượng phu đoàn ở mỗi làng từ 7 đến 10 tên trước đây lên 20 - 30 tên. Để kìm kẹp, phủ dụ con cháu trong họ, ngoài làng. Chúng lập ra các hội đồng tộc biểu gồm tộc trưởng và thủ chỉ các dòng họ trong mỗi làng và hội đồng hào mục gồm những tên hào lý cũ làm tham mưu cho bọn chức dịch đương chức.
          Các chi bộ Khải Mông và An Lạc hoạt động độc lập sau khi tách ra từ các chi bộ ghép vào giữa năm 1931 phải trực diện đối phó với mọi âm mưu thủ đoạn tàn bạo và thâm độc của quân thù nên gặp muôn vàn, thử thách.
          Đến giữa năm 1931 về sau được sự hỗ trợ của đồn binh Khải Mông, bọn hào lý ráo riết bắt dân chặt tre rào làng, lập các điểm canh ngày đêm có 4,5 tuần phu canh gác…
          Toàn thị trấn Xuân An ngày nay, làng nào cũng có từ 1 đến 2 điếm canh. Sau khi đã rào làng chúng bắt dân ra khỏi làng phải đi qua điếm canh cả ngày và đêm. Tất cả người ngoài làng khi qua điếm canh phải xuất trình thẻ thuế thân. Người nào chúng nghi ngại thì giữ lại tra hỏi.
          Bọn hào lý phải xuất tiền bạc, công quỹ làng chu cấp cho bọn phu đoàn, chúng còn bắt dân đóng góp thêm tiền gạo. Làng nào không đủ thì chúng bán công điền cho nhà giàu để trang  trải.
          Tên Pavan còn cho lính đến các làng ở Khải Mông và An Lạc ngang nhiên  chặt cây công  sản, của dân để rào đồn và xây dựng doanh trại. Chúng còn phân bổ cho dân các làng trong 2 xã hàng tháng phải cung đốn 50kg gạo trắng, 1 con lợn và gà vịt. Ngày lễ tết còn phải nộp  thêm nếp, lá gói bánh chưng. Lính đồn là một tai họa hãi hùng với dân vì hễ vào làng là chúng trêu gẹo đàn bà, hãm hiếp thanh nữ, cướp bóc của ngon vật lạ và bắt bớ đánh đập những người chống lại hoặc tình nghi ủng hộ Cộng sản mà bọn bang tá cung cấp danh sách.
          Mặc dù bị o ép trăm bề, song các đảng viên của hai Chi bộ  vẫn kiên trì bám dân, ra sức vận động tổ chức dân làng trực diện đấu tranh với bọn lính đòn Khải Mông và hào lý, phu đoàn.
          Ở Khải Mông Chi bộ đã tổ chức được 30 hội viên nông hội đỏ do đồng chí Hà Trình bí thư Chi bộ làm bí thư nông hội làng. ở An Lạc tuy chưa thành lập được nông hội đỏ, nhưng chi bộ đã xây dựng được hơn 50 cốt cán ở 4 làng Trung Lao, Thượng Thôn, Trung Lộc và Gia Hòa. Do điều kiện bị địch kìm kẹp  và số lượng đảng viên mỗi Chi bộ chỉ có 3 đảng viên, nên công tác tổ chức các đoàn thể quần chúng như Phụ nữ giải phóng, Thanh niên Cộng sản đoàn và Tự vệ đỏ ở cả 2 xã An Lạc và Khải Mông chưa có kết quả.
          Trước uy thế  ngày càng cao của quần chúng, đặc biệt là sau các vụ trừng trị bọn hào cường gian ác ở các nơi trong huyện như các tên bang tá Đinh Nho Tạo ở huyện lỵ, Đoan Ne ở Đan phổ, bọn hào lý ở An Lạc, Khải Mông ngày càng có sự phân hóa,. Số đông trong bọn chúng cam tâm làm tay sai cho đế quốc, phong kiến ra sức đàn áp dân lành như Phạm Huy (Trung Lộc), Nguyễn Tri ( Gia Hoà), Lê Phi, Lê Hương và Lê Trịnh… Song cũng có một số ít vừa làm việc cho địch vừa ngấm  ngầm ủng hộ đảng  Cộng sản như: Nguyễn Đổng ở Thượng Thôn và hương kiểm Nguyễn Lai.
          Trong những tháng cuối 1931 lính đồn Khải Mông hàng ngày kéo về các làng ruồng bố truy bắt cán bộ, đảng viên và những người nòng cốt trong đấu tranh. Nhưng được  nhân dân tận tình cưu mang che chở, bảo vệ. Nhờ đó phong trào ở Khải Mông và An Lạc vẫn kéo dài trong điều kiện vô cùng phức tạp, thử thách. Tuy bộ máy hào lý chưa tan rã, quần chúng chưa thực sự làm chủ xóm làng như một số nơi trong huyện đã thành lập được chính quyền xô viết, nhưng các Chi bộ vẫn lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được một số quyền lợi về chính trị và kinh tế như:

          - Vận động nhân dân dây dưa trong vụ sưu thuế vụ hạ 1931.
          - Buộc hào lý phải giảm xôi thịt trong cúng tế.
          - Thuyết phục các nhà giàu không đòi nợ lúa và tiền trong kỳ đói giáp hạt đầu 1931.
          - Vận động hào lý tổ chức sửa sang lại các giếng nước công cộng, đắp thêm đường sá, tu sửa cầu cống.

          Trong những ngày các làng lao động công ích, các đồng chí đảng viên đã hướng dẫn cốt cán thuyết phục được một số nhà giàu ủng hộ tiền bạc để nhân dân tổ chức ăn tập thể, có gia đình còn ủng hộ gạo nếp, lợn gà cho dân làng cùng hưởng. Một số hào lý, chức dịch có cảm tình với cộng sản cũng trích quỹ công ích của làng cho dân ăn uống.
          Đặc biệt ở thôn Trung Lộc ông Nguyễn Trung Hoài một cốt cán tích cực đã vận động được hơn 50 hộ trong làng đóng góp được 200 hộc lúa làm kho nghĩa thương để giáp hạt cho dân nghèo vay chống lại nạn vay nặng lãi của nhà giàu.
          Ngày 18/12/1931 hội nghị Tổng ủy Xuân Viên đang họp ở làng Khải Mông. Hội nghị đang họp thì bị vợ Bang tá Hữu người trong làng đi qua về báo lại với chồng. Tên Bang Hữu đã bí mật dẫn lính đồn Khải Mông đến bao vây. Trước tình hình tiến thoái lưỡng nam, đồng chí Trần Sĩ Cơ người Cổ Đạm bí thư Tổng ủy dũng cảm liều mình chạy ra khỏi nơi họp để thu hút bọn lính, tạo điều kiện cho các đồng chí trong cuộc họp thoát thân. Địch đã đuổi và nổ súng bắn chết đồng chí Trần Sỹ Cơ. Thi hài của đồng chí đã được bà con và chi bộ Tiên Cầu mai táng ở làng Uy viễn.
          Sau khi đồng chí Trần Sĩ Cơ ngã xuống, bọn lính đồn quay trở lại chố hội nghị thấy vắng bóng người, chúng hùng hỗ vào từng gia đình trong làng Khải Mông để lục soát tìm người lạ mặt. Được dân làng che dấu, bảo vệ chu toàn nên không ai bị sa vào tay giặc.
          Sau sự kiện đau thương và tổn thất ngày 18/12/1031, quân thù càng lồng lộn khủng bố. Chúng xảo quyệt nửa đêm nổi mõ, bắt cả làng ra tập trung ở đình để điểm mục, ai thiếu vắng thì sáng hôm sau bị bắt lên đồn tra hỏi và xử phạt rất nặng. Riêng làng Khải Mông mờ sáng bọn Bang Hữu, phu đoàn cùng quan, lính đồn binh ập vào từng nhà dân, bắt lật ngữa bàn chân để chúng xét, ai bàn chân đang ướt là chúng vu cho đi móc nối với Cộng sản cả đêm dầm sương nên ướt bàn chân. Ông Lê Huyền ở Khải Mông là một trong những người bị đánh đập tàn nhẫn trong trường hợp địch phát hiện sáng sớm bàn chân đã bị ướt.
          Cuối 1931 đầu 1932 bọn thống trị còn bày ra thủ đoạn xảo quyệt là bắt dân rước cờ vàng về đình làng và buộc những người chúng nghi vấn thân Cộng sản phải nhận thẻ quy thuận hứa trung thành với chúng.
          Đây là một thủ đoạn chính trị rất thâm độc làm hạ uy tín và ảnh hưởng của Đảng cộng sản trong lòng dân. Được đảng lãnh đạo, số đông nhân dân trong các làng lấy cớ là đau ốm đột xuất hay có ngày kị của ông bà hay đi chợ Vinh… Để  không tham dự ngày hương lý tổ chức rước cờ vàng về làng, hầu hết những cốt cán bị bọn Bang tá ghi vào sổ đen và gọi ra đình nhận thẻ quy thuận, họ đã từ chối thẳng thừng: "Chúng tôi có làm gì cho cộng sản chống lại nhà nước mà quy với thuận; Thuế má đóng đủ, phu đài tạp dịch không từ chối sao lại vu là thân với cộng sản".
          Do lãnh đạo nhạy bén, biết giữ kín lực lượng, không xuất đầu lộ diện trong đấu tranh nên 5/6 Đảng viên ở hai chi bộ Cộng sản ở Khải Mông và An Lạc tuy dều bị bắt nhưng chỉ bị giam ở đồn, dưới 6 tháng rồi được tha vì không đủ bằng chứng làm án. Riêng đồng chí Hà Trịnh bí thư chi bộ Khải Mông do bọn hào lý, bang tá, phu đoàn tố cáo là người đứng đầu các cuộc đấu tranh của cộng sản nên bị địch kết án chung thân sau hạ xuống 12 năm khổ sai, bị đày đi nhà lao Ban mê Thuật cuối 1932.
          Cùng chung hoàn cảnh như các nơi khác trong huyện và tỉnh, đầu 1932 phong trào cách mạng của nhân dân Khải Mông và An Lạc lắng xuống trong sự đàn áp của quân thù. Hoạt động của các chi bộ bị đình trệ. Nhưng người dân Kẻ Lau, Kẻ Lách, Khải Mông vẫn giữ vững lòng tin son sắt với Đảng Cộng sản. Họ đang chờ mong sự hồi phục của Đảng và phong trào cách mạng.
          Tuy chỉ có ít đảng viên, chi bộ lại mới ra đời, hoạt động trong điều kiện vô cùng khó khăn, trong vòng kiềm tỏa của lính đồn Khải Mông và sự khống chế  gắt gao của bộ máy hào lý, phu đoàn, bang tá nhưng các chi bộ Khải Mông và An Lạc đã sớm tổ chức và phát động được phong trào đấu tranh của đông đảo nhân dân. Những thành tích bước đầu của phong trào cách mạng tuy chưa to lớn, sâu rộng song đã hạ uy thế của bọn cầm quyền đưa lại một số thành quả về kinh tế, chính trị, xã hội, viết tiếp truyền thống yêu nước, bất khuất của quê hương, để lại dáu ấn lịch sử vẻ vang, mãi mãi là niềm tự hào của một vùng quê địa linh nhân kiệt.
          Song do điều kiện lịch sử cụ thể của quá trình xây dựng chi bộ, đặc biệt là khi các chi bộ mới tách ra từ các chi bộ ghép giữa năm 1931 là lúc quân thù điên cuồng tập trung mọi cố gắng cao nhất để đàn áp, khủng bố. Mặt khác do thiếu kinh nghịêm lãnh đạo, tổ chức và phát động quần chúng đấu tranh cũng như do tác động tiêu cực chỉ thị "Thanh Đảng" của xứ ủy Tung Kỳ (5/1931) đã hạn chế việc phát triển đảng viên. Do quan niệm máy móc, mang nặng đầu óc hẹp hòi, cô độc, coi một số thanh niên học sinh, nhà nho thức thời là tri thức, những người có của, một số chức dịch cũ của bộ máy hào lý đều là đối tượng của cách mạng nên không tin cậy và lôi kéo họ vào hàng ngũ của cách mạng. Có những thanh niên, nhà nho rất nhiệt tình, gắn bó với phong trào có năng lực vận động quần chúng như Nguyễn Trung Hoài ở Trung Lộc, ông Nho Ý ở Khải Mông có thể bồi dưỡng để kết nạp Đảng song chi bộ xem họ là " Trí thức" nên bỏ rơi. Hoặc như ông Đoàn Nghiêm ở Trung Lộc, một cựu phu đoàn có uy tín trong nhân dân cũng thiếu gần gũi vì cho là "phú, hào".
          Chính vì những quan niệm hẹp hòi, nặng thành phần giai cấp nên chẳng những không tăng được số lượng đảng viên mà việc xây dựng các đoàn thể quần chúng và mặt trận dân tộc thống nhất không có kết quả.
          Những bài học kinh nghiệm ấy cũng là những thiếu sót nhược điểm trong công tác nâng cao sức chiến đấu của chi bộ Đảng ngày nay vẫn còn nóng hổi.

            III. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG Ở KHẢI MÔNG, AN LẠC TRONG THỜI KỲ MẶT TRẬN DÂN CHỦ ĐÔNG DƯƠNG (1936 - 1939).
          1. Tóm tắt tình hình chính trị kinh tế xã hội trong những năm 1932 - 1935.

          Những năm 1932 - 1935 là thời kỳ thoái trào cách mạng trên cả nước. Bọn thống trị ra sức thực hiện chính sách hai mặt: Thẳng tay đàn áp Đảng cộng sản và điên cuồng khủng bố những người yêu nước đồng thời xúc tiến chính sách mị dân như: cứu trợ bão lụt 1933 và sau đó xúc tiến ở Hà Tĩnh một số công trình phúc lợi như đắp đê La Giang nhằm tô son trát phấn cho tên vua Bảo Đại từ Pháp mới về nước.
          Ở An Lạc và Khải Mông bọn cầm đầu ở huyện thanh lọc bộ máy hào lý, đưa những tên mẫn cán trong việc đàn áp cộng sản lên cầm đầu bộ máy tay sai. Đối với các đảng viên bị bắt giam do không đủ chứng cớ để làm án được trả tự do song lại phải quản thúc, không được ra khỏi làng. Muốn có được quyền tự do phải có tiền để chuộc " Công quyền". Đây là thủ đoạn nguy hiểm làm mất uy tín của người Cộng sản trong nhân dân.
          Về kinh tế, để mị dân bọn hào lý theo lệnh quan trên huy động dân và lấy công quỹ hoặc bán công điền để có kinh phí sữa sang đình chùa, đường sá, cầu cống trong xã. Chúng vừa được dịp lợi dụng công quỹ vừa được tiếng biết lo cho dân chẳng thua kém gì Đảng cộng sản. Năm 1934 cũng như ở các nơi khác trong huyện, chúng cho dân từ 18 tuổi trở lên là nam giới  đóng đủ sưu thuế, không can án, không bị quản thúc được tham gia  bầu lý trưởng ở các làng.
          Tuy sống trong cảnh cá chậu chìm lồng, trong điều kiện bị o, ép nhiều bề, tổ chức đảng bị đánh phá chưa khôi phục được, nhưng các đảng viên còn sót lại qua khủng bố trắng 1931-1932 đã bám dân, tin cậy vào dân và khôn khéo vận động nhân dân làm những việc ích làng lợi nhà như.
           - 1934 vận động 80 nông dân ở làng Trung Lộc ký tên kiện lên tri huyện Nghi Xuân buộc hai  nhà giàu là Bạch Nghi và Vĩnh Phương phải trả nợ cho làng 8 mẫu ruộng công điền mà năm 1932 chúng chiếm đoạt.
          Cùng năm trên, nông dân Gia Hòa trong phiên họp làng ( lễ kỳ phúc tháng 6 âm lịch) đã kịch liệt đấu tranh buộc lý trưởng Nguyễn Tư phải thanh toán số tiền quỹ làng trên 100 quan và 50 thúng thóc mà y chiếm đoạt.
          Những cuộc đấu tranh trên bọn cầm quyền đều biết có bàn tay của các đảng viên cộng sản lãnh đạo, nhưng chúng chưa phát hiện ra những người nào.
          Trong vụ giáp hạt đầu 1934 vì vụ mùa 1933 mất trắng, đa số nhân dân phải khoai, cháo trừ bữa, các đảng viên đã vận động, thuyết phục linh mục Nguyễn Hữu Minh xuất 120 quan tiền cứu đói cho các hộ giáo dân hết gạo ở Gia Hòa. Đồng chí Đậu Cảnh một đảng viên còn sót lại đã được dân tin cậy bầu vào chức lý trưởng làng vào năm 1934. Ông lý Cảnh đã khôn khéo tổ chức chia lại 24 mẫu công điền của làng công khai, hợp tình, hợp lý nên bọn hòa lý chức dịch, nhà giàu như Chánh Lược không thể lợi dụng, thao túng như trước đây, còn dân nghèo ai cũng vui vì nhận được số ruộng đất mà trước đó họ nằm mơ cùng không bao giờ có.
          2. Phong trào cánh mạng của nhân dân An Lạc - Khải Mông thời kỳ 1936 - 1939.
          Năm 1936 mặt trận Bình dân Pháp ( do Đảng cộng sản liên minh với Đảng xã hội) thắng thế trong bầu cử quốc hội, ông Lê Ông Bờ Lum người của mặt trận lên làm thủ tướng thực thi một số chính sách tiến bộ ở Pháp và các nước thuộc địa. Bọn cầm quyền ở Đông Dương buộc phải ban hành một số cải cách nới rộng tự do dân chủ ở như: Tự do báo chí và ngôn luận, cho lập nghiệp đoàn ở thành thị và các hội tương tế ái hữu ở nông thôn, trả tự do cho số đông tù chính trị…
          Thực hiện nghị quyết của Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản ( 7/1935), Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Đảng ( Đại hội đại biểu lần thứ nhất - 5/1935) họp ở Thượng Hải Trung Quốc  đảng ta đã kịp thời chuyển hướng sách lược đấu tranh trong điều kiện mới có nhiều thuận lợi.
          Sách lược mới của Đảng ta trong những năm 1935 - 1939 là: Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế ( thường gọi là mặt trận Bình dân, về sau đổi tên là Mặt trận dân chủ Đông Dương). Nhằm tập hợp rộng rãi các giai cấp, các Đảng phái, các dân tộc, các đoàn thể  chính trị các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau tham gia mặt trận, vận dụng linh hoạt các hình thức  và phương pháp cách mạng như công khai, bán công khai và bí mật nhằm đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo hòa bình.
          Dưới ánh sáng của sách lược ấy, phong trào cách mạng của đảng bộ Hà Tĩnh và Nghi Xuân bước vào một giai đoạn mới.
          Tình hình ở 2 xã Khải Mông và An Lạc trong những năm 1936 - 1939 có nhiều chuyển biến theo sách lược  mới của Đảng.
          Đầu năm 1936 đồng chí Trần Hóa người Thái Hòa  Nghĩa Đàn Nghệ an, là một đảng viên mới ra tù về sinh sống ở làng Cẩm Mỹ nay là Xuân Giang II ( vùng cù lao giữa Sông Lam thuộc xã Nam Giang cũ) đến vùng An Lạc Khải mông hoạt động.
          Bước đầu đồng chí Trần Hóa bắt mối với hai đảng viên cũ ở Gia Hòa là Nguyễn Liệu và Đậu Cảnh. Từ hai đồng chí này phát triển thêm một số cốt cán là nông dân nghèo như: Nguyễn Ngoạn ở Gia Hòa, Trần Tới, Trần Minh ở làng Thượng thôn. Đồng chí Trần Hóa truyền đạt sách lược  mới của Đảng và kế hoạch khôi phục lại Chi bộ, hướng dẫn phương pháp tổ chức vận động nhân dân lập các phường hội. Song chỉ sau 4 tháng thì giữa năm 1936 đồng chí trở sang Nghệ An để liên lạc với đảng cấp trên nhưng sau đó không trở lại An Lạc nữa. Do đó các đảng viên và cốt cán mất đường giây với tổ chức.
          Cuối 1936 đồng chí Hà Trình ở  Khải Mông từ nhà lao Ban Mê thuật  được trả tự do bắt mối với Nguyễn Trung Hoài ( Khảng) ở làng Trung Lộc, giác ngộ chính trị cho anh thanh niên có học thức, con một gia đình trung nông khá và bố trí cho  đồng chí Hoài ra ứng cử lý trưởng làng Trung Lộc năm 1936, thay tên Nguyễn Tự dân oán  vì chiếm đoạt công quỹ.
          Được đồng chí Hà Trình hướng dẫn và các đảng viên cũ trong làng cũng như nhân dân đồng tình, lý trưởng Trung Lộc - Nguyễn Trung Hoài đã làm một số việc ích làng lợi dân như:

                   - Khuyến khích các phường hội hoạt động .
                   - Củng cố kho nghĩa thương của làng lập 1931.
                   - Sửa sang các công trình dân sinh trong làng.
                   - Vận động một số thanh niên lập đội bóng đá, đọc sách báo tiến bộ.

          Bản thân Nguyễn Trung Hoài cũng sang vinh mua sách báo cách mạng xuất bản công khai  về nhà đọc và cho những người biết chữ quốc ngữ mượn.
          Chịu ảnh hưởng của phong trào chung của huyện, đặc biệt là phong trào ở Vinh - Bến thủy ( Nghệ An) trong những năm 1936 - 1939 ở Khải Mông, An Lạc tuy chưa sôi nổi song đã có những sự kiện như:
          - Các phường gặt, cấy, đi tranh lợp nhà, đóng thóc giúp nhau trong đời sống đã hoạt động có hiệu quả.
          - Ở Thượng thôn, Trung lộc có phong trào Thanh niên, học sinh lập các đội bóng đá, lập tổ đọc sách báo tiến bộ.
          - Thượng Thôn dân cử ông Nguyễn Đổng làm lý trưởng năm 1936 là người có cảm tình với cách mạng, có uy tín trong dân.
          - Ngày 23/2/1937 khi đoàn đại biểu Nghi Xuân sang Vinh đón ( Gô Đa) phái viên của chính phủ bình dân ở Pháp sang Đông Dương xem xét tinh fhình nghỉ ở xây Da lách một số thanh niên ở Thượng Thôn đã được tuyên truyền và gia nhập đoàn.
          - Năm 1937 trong các đợt lạc quyên tiền gạo ủng hộ công nhân Trường Thi và Dệt Nam Định đình công dài ngày gặp khó khăn do huyện ủy lâm thời Nghi Xuân phát động một số người ở 2 xã An Lạc và Khải Mông đã tham gia.
          - Giữa năm 1938 đồng chí Lê Tính đi khắp 5 tổng ở Nghi Xuân lấy được 200 chữ ký của hào lý yêu nước và đồng bào trong huyện gửi lên viện dân biểu Trung kỳ phản đối toàn quyền Đông Dương ban bố dự án luật tăng các loại thuế, ở Xuân An ngày nay có 5 người ký tên vào bản yêu sách ấy.
          Trong điều kiện hoàn cảnh có nhiều thuận lợi cả khách quan và chủ quan song công tác khôi phục  lại các Chi bộ và tổ chức các phường hội và các hình thức đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình ở An Lạc và Khải Mông thời kỳ 1936 - 1939 thu được kết quả còn thấp. Việc có 6 đảng viên cũ thời 1930 - 1931 đang có mặt ở địa phương mà không khôi phục lại tổ chức đảng là một tổn thất cho phong trào chung. Nguyên nhân chủ yếu là ý chí chiến đấu của đảng viên cũ của hai chi bộ An lạc và Khải Mông có sự giảm sút, mặt khác sự quan tâm giúp đỡ của tổ chức Đảng cấp trên chưa kịp thời.
          Bài học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng được rút ra trong thời kỳ này: chi bộ là hạt nhân lãnh đạo yếu tố quyết định của phong trào, thiếu vắng hạt nhân ấy thì dù có thời cơ, có thuận lợi cũng không thể xoay chuyển được tình hình.
          Trong công tác xây dựng Đảng, giáo dục rèn luyện đảng viên yếu tố hàng đầu là chính trị tư tưởng, vô luận trong điều kiện nào người cộng sản cũng phải giữ vững ý chí chiến đấu, thắng không kiêu, bại không nãn, giữ trọn phẩm chất kiên trung sống vì Đảng mà chết cũng vì Đảng, giao động chờ đợi, thiếu niềm tin cũng như cô độc, hẹp hòi là những mảnh đất tốt cho tiêu cực phát triển.

            IV. MẶT TRẬN VIỆT MINH LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945.
          1. Tình hình An Lạc - Khải Mông từ 1939 đến đầu 1945.

          Ngày 01/9/1939 phát xít Đức đánh chiếm Ba lan mở đầu đại chiến thế giới lần thứ 2. Ở Đông Dương toàn quyền Pháp từ năm 1940 đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, xóa bỏ những quyền tự do, dân chủ mà nhân dân ta đã đấu tranh giành được trong phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương ( 1936 - 1939). Chúng còn ra lệnh tập trung tất cả các chính trị phạm được trả tự do trong những tháng cuối 1936 vào các căng an trí và các nhà tù quản thúc những người tình nghi hoạt động yêu nước, có cảm tình với Cộng sản.
          Sau khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ, binh biến ở Đô Lương Nghệ An, đặc biệt là sau vụ chi bộ Sông Con ở Hương Sơn chủ trương tổ chức công nhân đồn điền nổi dậy giết tên chủ người Pháp là Phe rây và tên tay sai Hồ Dũng Tài, lấy đi 7 khẩu súng và hàng trăm viên đạn, bọn cầm quyền ở Hà Tĩnh tập trung mọi nổ lực cao nhát khủng bố trắng vô cùng  mạn rợ Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh.
          Ở An Lạc, Khải Mông đầu 1940 bọn mật thám dẫn lính đồn về bắt đồng chí Hà Trình, chúng tiếp tục đày đồng chí vào nhà tù Ban Mê Thuật.
          Tiếp đến lính đồn Khải Mông vè xã An Lạc bắt hào lý chặt tre, dùng lực lượng đoàn phu lập điểm canh ở ngã ba Da Lách để kiểm soát cả ngày và đêm khách bộ hành qua lại, hễ nghi ngờ ai là chúng bắt vào điếm canh tra hỏi. Điếm canh cây Da Lách trở thành nỗi sợ hãi của mọi người qua lại 2 bờ Sông Lam.
          Để cung đốn cho nước Pháp, dưới sự thúc ép của toàn quyền Đông Dương trực tiếp là tên khâm sứ Trung Kỳ, triều đình Bảo Đại đã ra nhiều chỉ dụ làm cho nhân dân ta điêu đứng như:
          - Cấp tốc tuyển lính, bắt phu phục vụ cho chiến tranh ở nước Pháp và công cuộc phòng thủ ở Đông Dương. Hễ gia đình nào trong các làng có ba con trai thì một người phải sung vào lĩnh khố đỏ, hoặc đi lính thợ. ( O.S) sang Pháp làm công không  cho các xí nghiệp quốc phòng. Còn những người đi phu phải nai lưng ra làm 14 giờ trong ngày ở các sân bay Quán Hành ( Nghệ An) hay sang tận Na pê. Lạc xao lao động trên công trường làm sân bay ở nước Lào.
          - Chúng tổ chức quyền tiền trong dân để bỏ vào quỹ " hưng công trợ chiến" nhằm tỏ lòng trung thành với nước Pháp. Làng nào dân đói nghèo không có tiền nạp thì hào lý được bán công điền lấy tiền nộp đủ chỉ tiêu tri huyện phân bổ. Được dịp may, hào lý, nhà giàu càng "đục nước, béo cò" .
          Cuối năm 1940 thực dân Pháp mở biên giới phía Bắc để cho quân Nhật vào chiếm Việt Nam và các nước Đông Dương. Từ đây nhân dân ta phải chịu cảnh " một cổ ba tròng".
          Là nơi ở vị trí xung yếu, vừa là cửa ngõ vào Hà Tĩnh bằng đường bộ và đường sông, lá chắn phía nam thị xã Vinh - Bến Thủy ở Nghệ An nên An Lạc, Khải Mông trở thành nơi phát xít Nhật ra sức khai thác xây dựng căn cứ hậu cần phục vụ mặt trận -Thái bình Dương đối phó với phe Đồng Minh trực tiếp là Hoa Kỳ.
          Năm 1942 Nhật chiếm 10 mẫu ruộng hai vụ lúa ven sông Lam cạnh núi Ranh để xây dựng nhà máy đóng tàu  của  hãng ATaca, còn khai thác gỗ tốt không chỉ trên núi Hồng Lĩnh thuộc địa phận các làng Thượng Thôn, Khải Mông, mà còn chặt hạ các cây cổ thụ như lim, dổi, táu ở các lùm lòi thuộc cây công sản của các làng về làm gỗ đóng tàu, sử dụng hàng trăm lao động trai trẻ đi làm công nhật cho xưởng ATAKA.
          Cũng thời gian trên, Nhật lập xưởng đóng thuyền vận tải ở Hưng Lợi đối diện với làng Thượng Thôn phía Bắc phà Bến Thủy thuộc huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Chúng huy động hàng chục thợ mộc ở các làng An Lạc với tiền công rẻ mạt, mỗi ngày lao động hơn 10 giờ nhưng trả chỉ 1kg gạo, làm ngày nào trả ngày đó. Nếu ai uể oải bị phạt hoặc bị đuổi, mất việc làm.
          Để khai thác quặng sắt non ở núi Đông Kèn xã Cương Gián và đối phó với chiến tranh có thể nổ ra, từ cuối 1942 Nhật bắt hàng trăm phu trong hai xã An Lạc và Khải Mông nâng cấp đường từ Trung Lộc đi Cương Gián và làm đường quân sự đã chiến từ Trung Lộc vào Cộng Khánh.
          Những người làm đường phải lao động trên 12 giờ một ngày, còn bị đánh đập không thương tiếc vì trể nãi trong lao động. Tuy Nhật có trả tiền công cho phu làm đường theo chế độ công nhật với số tiền vừa đủ đong gạo ăn  hai bữa nhưng bọn chủ thầu câu kết với hào lý còn tìm cách bớt xén.
          Theo lệnh của Nhật, năm 1943 tri huyện Nghi Xuân còn bắt dân Trung Lộc Gia Hòa nhổ lúa ở 2 mẫu ruộng ven Sông Lam thuộc vào loại 2 vụ lúa tốt nhất ở An Lạc để trồng đay. Việc thu mua thóc, lạc, vừng đều được chúng ráo riết thực thi. Ngoài chỉ tiêu chia cho các làng phải bán với giá rẻ mạt thấp hơn giá thị trường 20%, chúng còn cho tay chân đến phiên Chợ Lách, chợ Đồn bắt những người dân có thóc đi bán phải gánh xuống đồn Khải Mông để bán cho Nhật.
          Cuối năm 1944 máy bay Mỹ đến đánh phá một só cầu trên đường sắt, nhà máy của Nhật trên đất Nghệ Tĩnh, ở Hà Tĩnh chúng ném bom đánh Cầu Thọ Tường ( Đức Thọ) và bắn phá nhà máy đóng Tàu ở  An Lạc, bến phà núi Cơm bom đạn Mỹ đã làm hư hỏng một số nhà dân ở Thượng Thôn và Trung Lộc, giết hại bà Trần Thị Em chết,  bà Nhi  bị thương và các cháu An, cháu Tố làng Thượng Thôn chăn bò ngoài đồng lao động làm công.
          Do hậu quả của chính sách vơ vét và bóc lột nặng nề của Nhật, Pháp và Nam triều cùng với lụt lội gây nên thất bát mùa màng của vụ mùa 1944 đã gây nên nạn đói rùng rợn đầu 1945 trên đất An Lạc, Khải Mông. Ở các làng Thượng Thôn, Trung Lộc, Gia Hòa  và Khải Mông đã có hơn 450 người trong tổng số chưa đầy 2000 dân bị chết đói, có gia đình 4-5 người chết, có gia đình bị chết hết. Những người sống sót cũng là da bọc xương, sức khỏe kiệt quệ vì rau cháu dài ngày. Thảm thương nhất là có cháu nhỏ còn day vú mẹ khi mẹ đã nhắm mắt, xuôi tay. Có xóm phải quàn người chết trong vườn vì người còn sống đã kiệt sức, đa số người chết đói đều chôn không có quan tài, chỉ có chiếu rách bọc qua loa. Ở Cây Da Lách và bến đò không sáng nào là không có người nơi khác đi hành khất nằm chết đói bên bờ sông, cạnh gốc đa. Họ cũng chỉ được lấp bên bờ Sông Lam vì dân làng Thượng Thôn đã kiệt sức. Cảnh chết đói thê thảm đầu 1945 là tội ác tày trời của bọn thống trị, mãi mãi in sâu vào ký ức những người đã trải qua cuộc sống bể cực đầu năm Ất Dậu.
          Trận đói lịch sử ấy đã làm cho làng xã xơ xác tiêu điều, hơn 1/4 dân số ở hai xã An Lạc và Khải Mông đã khuất núi trong cảnh đời vô cùng tang tóc.
          2. Mặt trận Việt Minh ra đời lãnh đạo, tổ chức nhân dân giành chính quyền trong cách mạng tháng 8/1945.
          Do bị quân thù khủng bố và kìm kẹp gắt gao, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng để khôi phục lại Đảng bộ và phong trào cách mạng trong tỉnh, trong huyện. Nhưng từ 1940 đến tháng 3/1945 Đảng bộ Hà Tĩnh và Nghi Xuân không thể khôi phục được về mặt tổ chức nên phong trào cách mạng của nhân dân ta tạm thời bị lắng xuống.
          Ngày 09/3/1945 phát xít Nhật làm đảo chính thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương, dựng nên chỉnh phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Đây là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam mà chỉ thị " Nhật, Pháp bắn nhau, hành động của chúng ta" mà hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng họp ở Đình Bảng Bắc Ninh đã chỉ rõ.
          Nắm vững thời cơ giao thời giữa lúc Pháp đổ, Nhật nắm quyền thống trị , các tù chính trị ở các nhà lao trong nước đã tổ chức phá nhà lao trở về quê quán tiếp sức cho phong trào cách mạng. Đồng chí Hà Trình ở Khải Mông cũng từ nhà lao Ban Mê thuật trở  về làng trong dịp đó. Nhưng sức khỏe giảm sút nghiêm trọng do chế độ khắc nghiệt của nhà tù đế quốc, chưa đầy 1 tháng sau ngày sum họp gia đình đồng chí đã qua đời giữa lúc làng xóm quê hương đang từng ngày đổi thay và trông chờ vào sự góp công sức của người Cộng sản kiên trung với tổ quốc và làng nước.
          Do điều kiện lịch sử việc khôi phục lại Đảng bộ 2 tỉnh Nghệ Tĩnh phải có thời gian để sàng lọc, lựa chọn cốt cán vào cấp ủy các cấp là phải một quá trình xác minh thử thách mới đảm bảo độ tin cậy trong công tác xây dựng tổ chức Đảng, nên các cựu chính trị phạm ở hai tỉnh đã họp nhau lại ở Vinh và thống nhất chủ trương: "Trong lúc chờ liên lạc với Xứ ủy và Trung ương, thành lập ban vận động Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh để khôi phục lại phong trào cách mạng".
          Ngày 19/5/1945 Ban vận động Việt Minh liên tỉnh ra đời do đồng chí Nguyễn Xuân Linh làm trưởng ban. Được sự chỉ đạo của Việt Minh liên tỉnh, Việt Minh Nghi Xuân do đồng chí Lê Tính đứng đầu được hình thành vào cuối 5/1945 đồng chí Nguyễn Trung Hoài  cũng được tham gia Việt Minh bí mật ở Nghi Xuân vào lớp cốt cán đầu tiên ở Tổng tam xuân.
          Trong thời gian đó, chính phủ Trần Trọng Kim cũng ra sức xây dựng đoàn Thanh niên làm cơ sở chính trị ở nông thôn và thành thị ( thường gọi là Thanh niên Phan Anh).
          Chủ trương linh hoạt của Việt Minh Nghệ Tĩnh là đưa người của Việt Minh vào làm thủlĩnh  của Thanh niên Phan Anh để hướng hoạt động của họ có lợi cho Việt Minh và lựa chọn những người tốt làm nòng cốt cho việc xây dựng đoàn Thanh niên cứu quốc ở địa phương.
          Ở An Lạc và Khải Mông tổ chức thanh niên Phan Anh cuối tháng 5 đầu tháng 6 có một số người tham gia. Nhờ làm theo chủ trương sáng suốt của Việt Minh liên tỉnh, đồng chí Nguyễn trung Hoài chỉ trong một thời gian ngắn đã tích cực xây dựng được cốt cán trong tổ chức thanh niên Phan Anh và xây dựng được Đoàn thanh niên cứu quốc ở An Lạc Khải Mông. Đó là các đồng chí Trần Bởn, Phan Ấn, Nguyễn Hải làm nòng cốt với số hội viên lên đến 55 người vào cuối tháng 7/1945 trong đó: Thượng thôn có 15, Trung Lộc có 10, Khải Mông 15, Gia Hòa 11 người.
          Việt Minh ở An Lạc Khải Mông còn thu hút một số người yêu nước trong 2 xã, trong đó có nhà sư: Nguyễn Văn Thành. Đầu tháng 8/1945 theo chỉ thị của Việt Minh Nghi Xuân đồng chí Nguyễn Trung Hoài đã thành lập đội Tự vệ cứu quốc.
          Dưới danh nghĩa là thanh niên Phan Anh nên hoạt động của Đoàn thanh niên cứu quốc và đội tự vệ ở An Lạc Khải Mông được dễ dàng và ngày càng công khai. Các cuộc hội họp và sắm sửa dao mác, luyện tập đội ngũ dược xúc tiến thuận lợi trước con mắt hằn học của bọn hào lý, bang tá và đoàn phu.
          Về phía trong bộ máy tay sai ở làng, xã, tổng trong chính quyền Trần Trọng Kim sau ngày Nhật đảo chính không có sự xáo trộn vì chúng còn giữ nguyên hiện trạng và bọn Nhật cũng chưa với tay đến các làng xã. Vì vậy cũng có điều kiện cho Việt Minh xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương. Ảnh hưởng của Việt Minh ngày càng phát huy tác dụng trong nhân dân, tạo nên không khí ngày một sôi động trong làng xóm, xua tan dần sự ảm đạm, tiêu điều hậu quả của nạn đói Ất Dậu để lại. Hai tiếng Việt Minh đã được nhân dân công khai bàn tán và gieo vào lòng họ niềm  tin tưởng, hy vọng…
          Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Việt Minh liên tỉnh 08/8/1945, Việt Minh Nghi Xuân khẩn trương triển khai các công tác chuẩn bị tổng khởi nghĩa .
          Tại Tổng Tam xuân do đồng chí Nguyễn Trung Hoài ở làng Trung Lộc làm chủ nhiệmViệt Minh đã xúc tiến  các nhiệm vụ trang bị vũ khí thô sơ và huấn luyện quân sự cho các đội tự vệ ở các làng, tuyên truyền công tác chuẩn bị giành chính quyền, phát truyền đơn, phổ biến báo Kháng địch của Việt Minh liên tỉnh. Lần đầu tiên được nghe đọc các bài báo của Việt Minh, mọi tầng lớp nhân dân ai cũng, phấn khởi ngày Tổng khởi nghĩa. Lá cờ đỏ sao vàng 5 cánh được Việt Minh và đoàn thanh niên cứu quốc ở các làng hồ hởi mua sắm. Một không khí náo nức khắp làng xóm, chợ búa, hể có dịp gặp nhau ở chợ, ở bến đò hay trong các đám giổ, trọng hiếu, hỷ, nhân dân có bàn tán xôn xao về Việt Minh.
          Ngày 13/8/1945 sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Việt Minh liêntỉnh đã phát động tổng khởi nghĩa ở  02 tỉnh Nghệ Tĩnh.
Ngày 14/8/1945 hội nghị Đại biểu Việt Minh toàn huyện Nghi Xuân đã bầu ra ủy ban khởi nghĩa gồm 7 người do đồng chí Lê Tính làm chủ tịch.
          Sáng ngày 19/8/1945 ủy ban khởi nghĩa của Việt Minh Nghi Xuân triệu tập hội nghị tại làng Tiên Cầu ( nay là Xuân Giang) để thống nhất tổng khởi nghĩa trong toàn huyện vào ngày 20/8. Cuộc họp được nữa chừng thì nhận được tin của ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Hà Tĩnh cấp báo cho biết ông Đội Miện đã đồng ý giao đồn Khải Mông cho Việt Minh. Hội nghị quyết định ngay lập tức, cử đồng chí Nguyễn Công Hoạch ( cháu cụ Nguyễn Công Trứ  quê làng Uy Viễn thay mặt ủy ban khởi nghĩa tiếp nhận sự đầu hàng của Đội Miện, đồng thời huy động tự vệ cứu quốc 2 xã Khải Mông và An Lạc kéo thẳng xuống huyện làm lực lượng nòng cốt cho việc giành chính quyền ở huyện đường Nghi Xuân.
          Trưa ngày 19/8/1945 đồng chí Nguyễn Công Hoạch  phái viên đặc biệt của ủy ban khởi nghĩa Việt Minh Nghi Xuân lên xã An Lạc truyền đạt chỉ thị của Việt Minh huyện về việc huy động toàn bộ tự vệ xã An Lạc và xã Khải Mông đến tiếp quản sự bài giao vũ khí, binh lính, doanh trại đồn Khải Mông của Đội Miện đã tự nguyện đầu hàng cách mạng, rồi cùng hơn 50 đoàn viên thanh niên cứu quốc dương cao cờ đỏ sao vàng, đội ngủ chỉnh tề nhanh chóng tiến xuống huyện lỵ.
          Sau khi giành xong chính quyền ở huyện đường Nghi Xuân, đồng chí Nguyễn Trung Hoài, cùng số tự vệ và thanh niên cứu quốc An Lạc, Khải Mông nhanh chóng trở về địa phương hỗ trợ cho Việt Minh giành chính quyền trong Tổng, xã, làng ngay trong đêm 19/8 và mờ sáng 20/8/1945. Sau khi tập hợp hàng trăm quần chúng  trong 2 xã ở Chợ Lách và đồn Khải Mông đoàn biểu tình của nhân dân 2 xã  dương cao cờ Tổ quốc hò vang khẩu hiệu, trật tự, kéo sân vận động huyện dự lễ ra mắt của ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xuống Nghi Xuân.
          Sáng ngày 21/8/1945 tất cả 5 làng trong 2 xã An Lạc và Khải Mông hàng ngàn đồng bào đã tề tựu từ sáng sớm ở các đình làng để dự lễ ra mắt của các ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời. Các đồng chí cán bộ, cốt cán của Việt Minh được tin cậy giữ trọng trách chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các làng là:

          Đoàn Nghiêm: ở Trung Lộc
          Trần Bởn: ở Thượng thôn.
          Nguyễn Việt: ở Gia Hòa
          Phan Ấn: ở Khải mông

          Trước toàn thể nam nữ, lão, ấu trong làng, nhân danh Việt Minh các ông Chủ tịch ủy ban cách mạng  lâm thời đã tuyên bố giải tán bộ máy hào lý, chức địch, các hội đồng tộc biểu, hội đồng hào mục, tất cả mọi quyền lực trong làng thuộc về nhân dân, xóa bỏ mọi sưu thuế và các loại phụ thu lạm bổ, thực hiện nam nữ bình quyền…
          Cách mạng tháng 8 thành công kết thúc chặng đường đấu tranh đầy hy sinh thử thách của 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, cắm mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, lần đầu trong hàng ngàn năm xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhân dân Việt Nam cũng như người dân An Lạc, Khải Mông mới thực sự là người chủ của đất nước quê hương.
          Năm 1930 - 1945 những năm tháng đau thương song đầy hào hùng, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin được đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ của Đảng cộng sản Việt Nam do Hồ Chủ Tịch  sáng lập và rèn luyện, cùng với đồng bào đồng chí cả nước nhân dân An Lạc, Khải Mông đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung của Đảng bộ nhân dân Nghi Xuân và Hà Tĩnh.
          Chi bộ An Lạc và Khải Mông với 6 đảng viên lúc mới ra đời đã cùng toàn dân làm nên phong trào cách mạng trong những năm 1930 - 1931, đấu tranh giành được những quyền lợi thiết thực trong phong trào mặt trận dân chủ Đông Dương       ( 1936 - 1939).
          Dưới lá cờ vẻ vang của Mặt trận Việt Minh do Đảng cộng sản tổ chức, lãnh đạo nhân dân Khải Mông, An Lạc đã từ bùn đen của cuộc sống cơ cực, tối tăm vừa trải qua nạn đói có một không hai trong lịch sử, trong gông cùm kìm kẹp của ba tầng áp bức bóc lột dã man Nhật, Pháp và Nam Triều đã vùng lên trong Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân mau lẹ, kịp thời, mở ra một chặng đường cách mạng mới.
          Trong phong trào cách mạng của quê hương An Lạc Khải Mông đã có biết bao tấm  gương hy sinh, bền bỉ đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự sống còn của dân tộc mà tiêu biểu là các đồng chí.
          - Hà Trình: Một đảng viên Cộng sản lớp tiền bối ở Khải Mông đã chịu đựng bao thử thách trong nhà tù đế quốc. Mang án khổ sai chung thân, bị đày đoạ ở nhà Lao Ban mê thuật gần 10 năm trời hơn 3000 ngày đêm vẫn giữ trọn lòng son với Đảng, với dân. Hai lần ra tù về quê hương ở Khải Mông dù tấm thân hao kiệt sức lực song vẫn tiếp tục hoạt động, chăm lo bồi dưỡng lớp trẻ  để có người kế tục sự nghiệp về sau.
          - Đ/c Nguyễn Liệu một bần nông ở Gia Hoà Bí thư Chi bộ ghép Uyên Trừng và Chi bộ An Lạc, một trong 3 đảng viên cộng sản đầu tiên ở An Lạc.
          - Nguyễn Trung Hoài: Một thanh niên có học hành ở làng Trung Lộc, Sớm giác ngộ yêu nước trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, là nòng cốt của Việt Minh An Lạc, Tam Xuân, người chỉ huy xông xáo trong cách mạng tháng 8/1945. Gần 9 năm gắn bó với quê hương khi làm lý trưởng thôn Trung Lộc ( 1936 - 1945) cũng như tham gia lãnh đạo Việt Minh cả tổng Tam Xuân vẫn giữ trọn tấm lòng trung thành, tận tụy phục vụ nhân dân, làm việc ích nước lợi làng.
          Ôn lại những năm tháng thời kỳ 1930 - 1945 của lịch sử Đảng bộ và nhân dân thị trấn Xuân An chúng ta càng thêm phấn khởi tự hào và cũng rút ra những bài học lịch sử sâu sắc. Đó là công tác xây dựng chi bộ Đảng cả về tư tưởng và tổ chức là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Chăm lo giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ, thu hút mọi tầng lớp  nhân dân vào  các đoàn thể quần chúng của Mặt trận dân tộc thống nhất là yếu tố đặc biệt quan trọng tạo nên sức mạnh to lớn của cách mạng, bảo đảm cho Đảng không ngừng thực hiện thắng lợi đường lối trong bất cứ hoàn cảnh nào.
          Những thiếu sót, tồn tại trong công tác xây dựng chi bộ, phát triển và rèn luyện đảng viên, bệnh hẹp hòi và ấu trĩ tả khuynh trong thời kỳ bí mật giai đoạn 1930 - 1945 do điều kiện chưa được phê phán sâu sắc và tổng kết rút bài học kinh nghiệm nên đã để lại những tàn tích về sau.

Chương III.
XUÂN AN TRONG THỜI KỲ SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 THÀNH CÔNG VÀ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP ( 9/1945 - 7/1954).
––––––––––

 
            A. TÌNH HÌNH XUÂN AN SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 ĐẾN TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN.
          I. Những thuận lợi và khó khăn sau ngày cách mạng tháng 8 thành công.

          Hòa chung với niềm hân hoan, phấn khởi và không khí sôi sục cách mạng tiến công của đồng bào cả nước  sau ngày cách mạngtháng 8/1945 thành công, nhân dân An Lạc và Khải Mông hân hoan bắt tay vào thực hiện các  nhiệm vụ mới mẻ trong điều kiện có nhiều thuận lợi cơ bản song phải vượt qua những khó khăn chồng chất.
          Thuận lợi cơ bản có đường lối, sách lược phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Trung Ương Đảng và Hồ Chủ Tịch trong việc tập hợp lực lượng của cả dân tộc để đối phó với thù trong giặc ngoài đưa con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh.
          Nhân dân ta đã thoát cảnh nô lệ một cổ ba tròng, được giải phóng về mọi mặt thực sự là chủ nhân của làng xóm, đất nước, chính quyền cách mạng được thành lập từ làng đến tổng là chính quyền của dân, vì dân.
          Bên cạnh những thuận lợi to lớn ấy  tình hình ở Xuân An sau cách mạng tháng 8/1945 cũng đang gặp muôn vàn khó khăn, thử thách.
          - Hậu quả nặng nề của nạn đói đầu năm 1945 còn chưa khắc phục được thì vụ mùa thất bát nghiêm trọng do vỡ đê, mưa to, gió lớn nên cuối năm nhân dân phải đối mặt với nạn đói mới. Sản xuất  và đời sống đang gặp phải muôn vàn khó khăn trở ngại đầy thử thách: Gần 2/5 dân số Xuân An bị chết đói và phiêu bạt khỏi làng xóm, gần 1/2 ruộng đất bỏ hoang, trâu bò chỉ còn lại chưa đầy một nữa  do đó sức lao độngv à sức kéo thiếu nghiêm trọng. Bệnh tật hoành hành cùng với các tập quán lạc hậu, mê tín trong đời sống đang gây nhiều cản trở. Nhân dân trên 95% mù chữ.
          - Trong lúc giặc đói, giặc dốt đang đè nặng cuộc sống của mọi người thị giặc ngoại xâm và bọn nội phản cũng đang từng ngày uy hiếp quân Pháp tập trung ở biên giới Việt Lào lăm le tấn công đánh chiếm Hà Tĩnh và Nghệ An. Bọn " Tàu Tưởng" ồ ạt đưa quân vào Bắc đóng chốt ở Vinh, ở một số nơi trong tỉnh hà hơi tiếp sức cho bọn phản động và cường hào, quan lại cũ  ngóc đầu dậy chống phá, gây hoang mang trong nhân dân.
          - Chính quyền cách mạng mới ra đời còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm trong quản lý và điều hành công việc, tài chính công quỹ không có để hoạt động. Cán bộ phải ăn cơm nhà vác tù hàng tổng, đội ngũ cốt cán vừa thiếu lại trình độ thấp, có người còn mù chữ.
          - Nhưng khó khăn lớn nhất là do hậu quả của việc khủng bố trắng tàn khốc của quân thù, nên Đảng bộ Nghi Xuân và tổ chức đảng ở An Lạc  Khải Mông trước và sau cách mạng tháng 8/1945 chưa khôi phục được. Mọi đường lối, chính sách của Trung ương và cấp trên còn do mặt trận Việt Minh tổ chức thực hiện ở địa phương.
          Mặc dầu có rất nhiều khó khăn phức tạp, song với truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân và bản chất kiên định, một lòng một dạ vì nước vì dân của những người Cống ản và cán bộ Việt Minh ở Xuân An đã vững tay chèo lái, đưa sự nghiệp cách mạng của quê hương vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành công cuộc  khôi phục lại chi bộ Đảng, củng cố chính quyền và các đoàn thể, động viên được sức mạnh toàn dân vừa chống ba thứ giặc: đói, dốt và ngoại xâm, vừa tích cực  chuẩn bị về mọi mặt để chủ động bước vào thực hiện nhiệm vụ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược.
          II. Thành lập chi bộ, củng cố chính quyền và các đoàn thể.
          1. Thành lập Chi bộ.
          Tháng 1/1946 Chi bộ ghép tổng Tam xuân được khôi phục, đồng chí Nguyễn Liệu ở An Lạc làm bí thư, có 2 đảng viên quê Gia Hoà là Nguyễn Liệu và Đậu Cảnh. Tháng 2 đến tháng 6 năm 1946, Chi bộ Tam xuân kết nạp thêm 4 đảng viên mới ở An Lạc là Nguyễn Trung Hoài, Trần Bởn, Nguyễn Nguyên, Phan Huệ. Tháng 7/1946 theo Quyết định của huyện uỷ Nghi Xuân tách Chi bộ ghép thành 2 chi bộ là Chi bộ Tam xuân và An Lạc. Cuối tháng 7/1946 Chi bộ An Lạc mở đại hội bầu ban Chi uỷ. đồng chí Nguyễn Liệu được bầu làm bí thư. Đến cuối 1947 chi bộ An Lạc đã có 37 đảng viên, sinh hoạt trong 3 tổ đảng là Thượng Thôn, Trung Lộc, Gia Hoà và bầu Ban chi uỷ mới  gồm các đồng chí Nguyễn Liệu bí thư, Hồ Ngọc Liễn phó bí thư chủ tịch UBKCHC xã, Đậu Duy Mai thường vụ phụ trách tổ chức, Đậu Trọng nông hội, Trần Bửu xã đội trưởng.
          Trong công tác kết nạp đảng viên chi bộ đã chăm lo  lựa chọn cốt cán, phân công đảng viên đi sát từng đối tượng để giáo dục, theo giõi, uốn nắn cả về tư tưởng và đạo đức, chi bộ đã kịp thời  có chủ trương thử thách đảng viên mới bằng việc giao cho phụ trách công tác  cụ thể ở làng, ở các đoàn thể.
          Nhìn chung đội ngũ đảng viên thời kỳ 1946- 1947 ở An Lạc tuy trình độ chưa cao nhưng tư cách và đạo đức tốt, công tác nhiệt tình và giữ được vai trò tiên phong gương mẫu, có uy tín trong nhân dân.
          Chi bộ An Lạc được thành lập là một sự kiện chính trị trọng đại, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng của Đảng bộ  và nhân dân Xuân An. Từ đây phong trào cách mạng ở địa phương có đội tiên phong trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân trong xã thực hiện  thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng.
          2. Củng cố chính quyền và thành lập xã An Lạc.
          Sau khi giành thắng lợi vĩ đại trong tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, theo chủ trương chung của Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh chính quyền cách mạng được thành lập ở các làng và tổng gọi là: ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời.
          Thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Hà tĩnh  ( 12/12/1945),giữa tháng 12/1945 giải thể chính quyền  cấp làng và cấp tổng thành lập chính quyền  cấp xã gọi là ủy ban nhân dân.
          Từ đó xã An Lạc được thành lập trên cơ sở xã An Lạc cũ của tổng Tam Xuân.
          UBND xã An Lạc gồm 5 người do ủy ban nhân dân huyện Nghi Xuân chỉ định, đồng chí Nguyễn  Trung Hoài làm Chủ tịch UBND xã.
          Còn thôn Khải Mông thời kỳ này được ghép với các làng Tiên Cầu và Uy viễn, Tả Ao tổng Xuân Viên cũ thành lập xã mới là Giang Nam.
          Sau thắng lợi của tổng tuyển cửbầu ra Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa  ( 06/01/1946 ); tháng 2 năm 1946 các cử tri ở An Lạc và Khải Mông không phân biệt nam, nữ, tôn giáo, giàu nghèo đã phấn khởi cầm lá  phiếu bầu các vị đại biểu vào Hội đồng nhân dân xã An Lạc và xã  Giang Nam.
          Tháng 05/1946 Hội đồng nhân dân các xã An Lạc và Giang Nam họp phiên đầu tiên bầu ra ủy ban hành chính cấp xã.
          Ủy ban hành chính xã An Lạc đã bầu đồng chí Hồ Ngọc Liễn Chủ tịch và Nguyễn Hảo ( giáo dân) làm Phó chủ tịch, cơ cấu ủy ban hành chính xã có các ủy viên quân sự, tư pháp, công an, tài chính văn hóa  xã hội, về sau thêm trưởng ban bình dân học vụ.
          Sau  khi giải thể ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời ở làng, mỗi làng chỉ có  một thôn trưởng phụ trách công việc hành chính.      
          Sau khi chi bộ  Đảng An Lạc thành lập đảm đương sức mệnh lịch sử lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối mọi mặt ở địa phương, chức năng của mặt trận Việt Minh chủ yếu là tập hợp các tầng lớp nhân dân thực hiện các Nghị quyết của Chi bộ Đảng,  Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính xã. Chủ nhiệm Việt Minh xã An Lạc lúc mới thành lập xã  ( 12/1946) là đồng chí Nguyễn  Liệu, từ tháng 7/1946 về sau là đồng chí Trần Bởn.
          Thực hiện đường lối đại đoàn kết  toàn dân của Đảng và Hồ Chủ tịch, tháng 05/1946 Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là Hội Liên Việt ra đời nhằm thu hút các vị thân hào, thân sỹ, những người khá giả, các vị chức sắc  giáo hội thiên chúa và đạo phật cùng đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong xã nhằm động viên toàn dân hăng hái tham gia thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ mới. Chủ tịch Hội liên việt đầu tiên của xã An Lạc là nhà sư Phạm Xuân Diện.
          Các đoàn thể quần chúng như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thiếu niên và Nhi đồng cứu quốc…được củng cố, phát triển thêm hàng trăm hội viên mới, thu hút tất cả những người trong xã có lòng yêu nước và nhiệt thành  với chế độ dân chủ cộng hòa. Cuối 1946 có thêm các đoàn thể Phụ lão cứu quốc và Hội mẹ chiến sỹ, Hội Giúp đỡ binh sĩ bị nạn tiền thân của ngành thương binh liệt sỹ ngày nay.
          Sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong các tổ chức quần chúng yêu nước sau ngày cách mạng tháng 8 thành công đã tạo nên sức mạnh  tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần đưa An Lạc vượt qua mọi khó khăn trở ngại.
           III. Phát động toàn dân tham gia " diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm".
          Ngày 02/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước Công nông đàu tiên ở Đông nam Châu á. Trong phiên họp chính phủ lâm thời  sáng 03/9/1945 Người đã đề ra ba nhiệm vụ cấp bách  trước mắt cho toàn Đảng toàn dân ta là. " Ra sức diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm…" Cùng với đồng bào cả nước, nhân dân An Lạc và Khải Mông đã nô nức hưởng ứng lời kêu gọi của vị cha già dân tộc, hăng hái ra quân với khí thế cách mạng sôi nổi, liên tục.
          1. Đẩy mạnh sản xuất và tương trợ  lẫn nhau đẩy lùi nạn đói.
          Để khắc phục hậu quả của nạn đói đầu năm 1945 và mùa màng mất  nặng do bão lụt, vỡ đê trong vụ mùa 1945, trước nguy cơ một nạn đói mới đang uy hiếp, mặt trận Việt Minh và ủy ban nhân dân xã An Lạc đã có nhiều chủ trương và biện pháp tích cực , thiết thực để đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng và phát động toàn dân tương trợ giúp đỡ nhau trong đời sống.
          Về sản xuất mọi gia đình và đoàn thể đều thi đua trồng khoai lang, rau màu, bầu bí để sớm có cái ăn hàng ngày trong khi thóc gạo cạn dần do vụ mùa 1945 thu hoạch không đáng kể. Mặt khác mặt trận vận động các gia đình khá giã tạm hoãn đòi nợ tiền  và thóc  mà dân nghèo còn nợ.
          Để  tạo điều kiện cho các hộ nghèo có đất sản xuất, chính quyền đã thuyết phục các điền chủ nhiều ruộng hoang, hóa nhường hoặc tạm nhượng cho bà con thiếu đất canh tác. Ruộng đất công các phe, giáp trong làng được giao cho các hộ thiếu ruộng. Đất bãi bồi ven sông, đất chùa, đình và đất ven núi chính quyền xã khuyến khích nhân dân khai hoang trồng trọt, thiếu trâu bò cày cấy, các đoàn thể phát động phong trào  cuốc đất  và vận động các hộ có sức kéo đổi công, tương trợ những hộ không có trầu bò cày.
          Đầu  năm 1946 huyện lập trại tế bần ở đồn Khải Mông, thu hút những người hành khát, người già cả không nơi nương tựa.
          Nhờ các biện pháp cụ thể ấy nên vụ đông xuân 1945 - 1946 ở An Lạc và Khải Mông khoai lúa đã khép kín đồng, giêng hai thiếu gạo, đói cơm đã có rau, màu thay thế. Nạn đói giáp hạt đầu 1946  số hộ hết ăn không nhiều, các làng không xẩy ra nạn chết đói như đầu năm Ất Dậu.
          Noi theo tấm gương tiết kiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các gia đình trong mỗi làng mỗi bữa nấu cơm đã giành một nắm gạo bỏ vào " hũ gạo chống đói". Cả xã hàng tháng đã giành ra được 5,6 tạ gạo, số gạo này nhân dân tự nguyện nộp cho làng, cho xã để làm quỹ chống đói, quỹ nuôi dân quân du kích hoạt động và một phần nộp lên huyện để trang trải lương thực cho cán bộ, bộ đội huyện. Sau ngày toàn quốc kháng chiến " Hũ gạo chống đói" vẫn được duy trì và đổi thành " Hũ gạo kháng chiến" đã góp phần quan trọng về lương thực cho cả xã và huyện trong những năm 1947 - 1948.
          2. Toàn dân tham gia bình dân học vụ đẩy lùi giặc dốt.
          Ngày 03/9/1945 Hồ Chủ Tịch đề nghị trong phiên họp của Chính phủ lâm thời cả nước mở chiến dịch " Chống nạn mũ chữ" vì " Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và " Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân pháp dùng để cai trị chúng ta" .
          Cũng sau đó ít ngày Nha bình dân học vụ được thành lập ở trung ương, ở cấp tỉnh có ty bình dân học vụ, cấp huyện và xã có trưởng ban bình dân học vụ. Trưởng ban bình dân học vụ đầu tiên của xã An Lạc là ông Trần Khôi.
          Thực hiện phương châm " Người chưa  biết chữ thì gắng học, chồng bảo cho vợ biết, anh bảo cho em, con bảo cho cha mẹ, người làm thuê thì chủ nhà bảo… phụ nữ càng cần phải đi học…"; Chỉ trong một thời gian ngắn, phong trào bình dân học vụ đã thu hút hàng trăm người ở các làng trong xã An Lạc.
          Với biện pháp tổ chức rất linh hoạt đa dạng như: Thầy giáo là người biết chữ quốc ngữ trong làng, lớp  học là đình, chùa, nhà thờ họ, nhà tư gia rộng. Bàn ghế là chõng tre, ghế  tựa, tràng kỷ, bảng đen là cánh cửa, phấn là đát thó trắng nhào nước phơi khô vắt thành thỏi phơi nắng, thiếu giấy thì ngâm sách cũ vào nước phơi nắng  cho phai mực, thiếu mực thì láy quả mua, quả sim rừng chín chế biến; thiếu bút vót tre nhọn thay thế. Tất cả mọi sáng kiến phong phú ấy đã tạo cơ sở vật chất cho các lớp bình dân học vụ tồn tại.  Để tiện lợi cho mọi người tham gia học, giờ học là buổi trưa,  hoặc đốt đèn dầu lạc, dầu vừng, dầu sở học buổi tối. Chỉ sau gần 3 tháng phát động, ở An Lạc  và Khải Mông đến cuối tháng 12/1945 đã có hơn 350 người thoát nạn mù chữ, đọc thông viết thạo chữ  Quốc ngữ nên trong các ngày bầu cử quốc hội ( 06/01/1946) và bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và xã ( 27/2/1946) gần 1/5 cử tri trong xã đã tự tay cầm bút viết tên những người mình tín nhiệm vào phiếu bầu cử.
          Để cổ động cho phong trào bình dân học vụ có tới hàng trăm khẩu hiệu viết trên lá cót, trên nông, nia, mẹt đặt dọc đường, và đến phiên chợ xã  dựng cổng chia làm hai cửa vào, giành riêng cho người biết chữ và người mù chữ. Hình thức này tuy nặng nề song có tác dụng thiết thực. Đặc biệt hàng loạt thơ, ca, hò, vè, ví dặm và hoạt cảnh ra đời nhằm cổ đông phong trào bình dân học vụ:

" Lấy chồng biết chữ là tiên
Vợ anh mũ chữ là duyên hết rôi!"
hay " Mù chữ khổ lắm ai ơi
Có mắt mà chẵng có gì sáng soi.".

          Làng xóm rộn ràng, náo nức khung cảnh cả nhà già trẻ, gái trai đều tham gia bình dân học vụ.

" Này bà, này mẹ, này cha
này là em ruột, kia là chị dâu
i, tờ chắp chữ ghép câu
Người, người xúm xít bảo nhau học bài…

          Càng về sau phong trào bình dân học vụ ở An Lạc, Khải mông càng thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân. Nhiều cụ ông, cụ bà trên 60 tuổi, 70 tuổi cũng thi đua cùng con cháu đi học bình dân. Đến cuối 1948 xã An Lạc được huyện công nhận là xã cơ bản thanh toán nạn mù chữ trong độ tuổi, góp phần cùng cả huyện, cả tỉnh đầu 1949 được Hồ Chủ Tịch gửi thư khen và thưởng huân chương độc lập hạng Nhì cho tỉnh ta về thành tích dẫn đầu trong cả nước về thanh toán nạn mù chữ. Đây là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử trong việc nâng cao dân trí, phản ánh truyền thống hiếu học lâu đời của người An Lạc Khải Mông nói riêng và nhân dân Hà Tĩnh nói chung.
          3. Ủng hộ quỹ độc lập và đồng bào Nam bộ, Nam Trung bộ kháng chiến chống giặc ngoại xâm, chi viện kịp thời cho mặt trận biên giới phía tây Hà Tĩnh.
          Để góp phần giải quyết nền tài chính quốc gia còn eo hẹp, trung tuần tháng 9/1945 cùng với đồng bào cả nước, nhân dân An Lạc, Khải mông đã hưởng ứng nhiệt tình " Tuần lễ vàng"  gây quỹ độc lập.
          Ngày 17 tháng 9 năm 1945 từ khắp các ngã đường trong các làng nhân dân nô nức kéo về địa điểm tập trung ở Đình làng Thượng Thôn cạnh cây Da Lách dự lễ phát động tuần lễ vàng. Hàng trăm hộ trong xã đã vui vẻ, tự nguyện xung phong góp vào quỹ độc lập, một số chỉ vàng, hàng trăm đôi trằm xuyến, xà tích, tói, vòng khuyên bằng bạc, nhiều người ủng hộ tiền đồng, bạc Đông Dương. Trước khí thế sục sôi ủng hộ quỹ độc lập của nhân dân An Lạc nhiều khánh bộ hành qua lại trên quốc lộ I cũng dừng chân tham gia  và góp phần vật chất ủng hộ quỹ độc lập tạo nên một ngày hội tưng bừng chưa từng có trên bờ nam Sông Lam dưới chân núi Lách.
          Sau ngày 23/9/1945 trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp đồng bào, chiến sỹ Nam bộ và Nam Trung bộ đã anh dũng đứng lên đánh trả chúng. Theo lời kêu gọi thiêng liêng của Hồ Chủ Tịch, cùng với đồng bào cả nước  nhân dân An Lạc, Khải Mông đã sôi nổi hưởng ứng phong trào ủng hộ Nam bộ và Nam trung bộ kháng chiến. Những tháng cuối 1945 đầu 1946 hòa chung với cả huyện phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến  của nhân dân Nam bộ và Nam trung bộ ở các làng trong xã diễn ra sôi động đều khắp.
          Hàng trăm nam nữ thanh niên, dân quân du kích và cả các cụ phụ lão đã hăng hái ghi tên gia nhập  vào đội quân Nam Tiến Tháng 01/1946 Hà Tĩnh tiễn đưa 250 chiến sỹ Nam tiến lớp đầu tiên trong đó ở An Lạc có hai chiến sỹ là: Nguyễn Minh Châu và Đặng Tấn…
          Tuy còn gặp đói kém nặng nề sau bão lụt tháng 8/1945, nhưng với tình cảm lớn Nam bắc một nhà, các tầng lớp nhân dân ở An Lạc, Khải Mông đã giành dụm từng cân gạo, đồng tiền ủng hộ vào quỹ Nam Bộ kháng chiến.
          Hướng lên miền tây tỉnh nhà, nơi các đơn vị bộ đội của chi đội Phan Đình Phùng ( sau 3/1947 đổi tên là Trung đoàn 103) đang đánh địch ở Napê, Ba na phào, nhân dân Xuân An đã kịp thời chia lứa bằng cách gửi con em xung phong vào vệ quốc đoàn, gửi quà bánh, thuốc lào úy lão nhân dịp Tết Âm lịch năm 1946. Trong năm 1946 và đầu năm 1947 ở An Lạc Khải mông có 11 thanh niên xung phong nhập ngũ, trong đó có một số tham gia chiến đấu ở mặt trận miền tây Hà Tĩnh.
          4. Khẩn trương tổ chức phòng thủ, tích cực chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp bảo vệ quê hương, đất nước.
          Thực hiện sách lược sáng suốt " hòa để tiến" của thường vụ Trung ương Đảng và Hồ Chủ Tịch ngày 06/3/1946 chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và đại diện chính phủ Pháp ở Đông Dương đã ký" Hiệp định sơ bộ". Nhằm nhân nhượng có điều kiện cho quân đội Pháp đóng quân ở Hà Nội và một số nơi ở miền trung và miền bắc để có hòa bình, tạo điều kiện cho công cuộc chuẩn bị kháng chiến sau này.
          Sau hiệp định ấy tháng 5/1946 ủy ban phòng thủ các cấp từ tỉnh xuống  xã được thành lập bên cạnh ủy ban hành chính để đặc trách chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến về sau:
          Ở An Lạc đồng chí Nguyễn Liệu bí thư chi bộ trực tiếp là Chủ tịch Uỷ ban phòng thủ xã, giúp việc cho ủy ban phòng thủ có các ủy viên quân sự, công an, giao thông liên lạc và các tổ chức khác như: Y tế, tản cư, sơ tán lương thực, vũ khí, trinh sát…
          Lực lượng tự vệ sau cách mạng tháng 8/1945 được đổi tên thành dân quân, du kích bao gồm: 01 trung đội du kích, tập trung ở xã gồm 40 cán bộ, chiến sỹ và ba trung đội dân quân ở Ba làng có trên 100 người. Tham gia dân quân du kích có nhiều nữ thanh niên, trang bị chủ yếu là mã tấu, giáo mác, một số còn sử dụng gậy lim hoặc tre đực. Để có vũ khí thô sơ xã tổ chức " Tuần lễ đồng". Nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt, hàng trăm hộ đã ủng hộ đồ đồng, đồ sắt để có nguyên liệu rèn giáo mác. Các lò rèn tư nhân trong các làng tự nguyện xung phong rèn giao, kiếm trang bị cho dân quân du kích.
          Cùng với việc hàng tháng tổ chức huấn luyện quân sự cho các đơn vị dân quân, du kích, ủy ban phòng thủ khẩn trương xây dựng phương án tác chiến đánh địch đổ bộ đường không, đường sông, lập kế hoạch tản cư, sơ tán nhân dân, giao thông liên lạc, cấp cứu chiến thương, cung cấp hậu cần khi có chiến sự xẩy ra.
          Lực lượng công an ở xã và thôn được củng cố, sắp xếp lại, lựa chọn cốt cán và lập phương án đánh địch, phòng gian, bảo vệ nhân dân.
          Để có cán bộ huấn luyện quân sự cho dân quân du kích, ủy ban phòng thủ đã vận động một số cựu binh trong các sắc lính khố xanh, khố đỏ có cảm tình với cách mạng làm giáo viên quân sự.
          Trong những ngày dân quân học tập quân sự và đội du kích bán tập trung hoạt động các đoàn thể đã vận động hội viên, đoàn viên ủng hộ gạo, rau quả, cá thịt, củi và cử người nấu cơm, nấu nước phục vụ hậu cần chu tất. Các gia đình khả giả còn mời dân quân du kích cơm nước.
          Đầu tháng 12/1946 thực hiện chủ trương giải thể ủy ban phòng thủ ở các cấp chuyển giao mọi việc cho ủy ban kháng chiến xã đảm nhiệm. Chủ tịch ủy ban kháng chiến đầu tiên của xã An Lạc là đồng chí Hồ Ngọc Liễn.
          5. Phát triển giáo dục, văn hóa, xây dựng đời sống mới. 
          Cùng với công tác Bình dân học vụ, sau ngày đất nước độc lập, Việt Minh và ủy ban nhân dân cách mạng làm thời tổng Tam Xuân đã tạo mọi điều kiện để thành lập các trường học ở các xã trong tổng.
          Giữa tháng 9/1945 trên cơ sở trường sơ học An Lạc cũ,  trường tiểu học bán công An Lạc được tổ chức gồm 2 lớp 5 và 4 ( tương đương lớp 1 và lớp 2 ngày nay) do hai thầy Bùi Bổng và Nguyễn Xuân Lan huyện giới thiệu về, thầy Bùi Bổng làm hiệu trưởng, tổng số học sinh xấp xỉ  100 em, phần đông học sinh là con, em các làng Thượng Thôn và Trung lộc, ngoài ra có một số con cái gia đình khá giả giáo dân ở Gia Hòa.
          Công tác tuyên truyền thông tin, văn nghệ, thể dục thể thao đều được chính quyền và mặt trận Việt Minh chăm lo, phát triển ngày càng phong phú. Ngoài việc đôi tuyên truyền xung phong của huyện do đồng chí Nguyễn Trung Hoài  huyện ủy viên  hướng dẫn tổ chức về biểu diễn ca hát, kịch nói, ví dặm thu hút hàng trăm  người trong xã, trong các buổi mê tín, tổ chức liên hoan văn nghệ, các đồng chí trong chi ủy và chính quyền xã đều tranh thủ phổ biến chủ trương, chính sách của cấp trên và công tác trước mắt của địa phương. Đặc biệt các đợt tuyên truyền về tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I và Hội đồng nhân dân xã đầu tiên hàng trăm người ở các làng đã sinh hoạt, hội họp quán triệt mục đích, ý nghĩa, nghĩa vụ và quyền lợi của cử tri nên trong các cuộc bầu cử đã có hơn 99% cử tri đi bỏ phiếu đúng luật.
          Trong " tuần lễ vàng", tuần lễ đồng và "ủng hộ đồng bào Nam bộ, Nam trung bộ kháng chiến", tiễn đưa con em lên đường Nam tiến và gia nhập quân đội xã đã tổ chức mít tin, diễu hành trọng thể có đông đảo nhân dân tham gia và tổ chức liên hoan đốt lửa trại, diễn kịch, ca hát sôi nổi.
          Đội ca kịch của xã đã dày công luyện tập, công diễn các vỡ chèo Kim Vân Kiều, vở tuồng Trần Bình Trọng, diễn ca kịch: Đội Cung cướp đồn Rạng đã thu hút đông đảo khán giả trong và ngoài xã. Nhiều vỡ kịch tự biên, tự diễn có nội dung cổ động phong trào Bình dân học vụ,  tăng gia sản xuất, hũ gạo chống đói vv… được biểu diễn thành công gây dược cảm tình trong nhân dân.
          Phong trào thể thao thể dục được đông đảo thanh thiếu nhi hưởng ứng nhiệt tình. Các buổi giao hữu giữa đội bóng các làng; đội bóng của xã nhà với xã bạn diễn ra trên địa bàn An Lạc thu hút hàng trăm người đến xem.
          Sáng sáng thiếu nhi cac làng tập hợp đi đều, chiều chiều thanh niên tụ họp đá bóng, cùng với các cuộc tập đánh trận giả của dân quân  du kích tạo nên không khí sôi động trong thôn xóm. Cả xã cuộc sống cả ngày và đêm như ngày hội.
          Cuộc vận động ăn ở hợp vệ sinh, cưới xin, ma chay, giổ tết theo đời sống mới được thực hiện ngày càng có nề nếp. Nạn tảo hôn, rượu chè, cờ bạc, trộm cắp, hút xách, đồng bóng được phê phán và ngăn chặn. Đời sống tinh thần, văn hóa của toàn dân thực sự được khởi sắc, với hình ảnh " Cách mạng là ngày hội của nhân dân"
            B. CHI BỘ AN LẠC LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP ( 1947 - 1949).
          Trước đã tâm cướp nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, đêm 19/12/1946, bộ đội ta ở pháo  đài Láng đã nổ súng tập kích vào các cứ điểm của quân Pháp ở Hà Nội mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Sáng ngày 20/12/1946 đài tiếng nói Việt Nam truyền đi khắp ba miền Trung, Nam, Bắc lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch "...Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu tổ quốc ...".
          Cùng với đồng bào, chiến sỹ cả nước, cán bộ, Đảng viên và toàn dân An Lạc và Khải Mông đã vâng lệnh cụ Hồ bình tĩnh, hiên ngang, khẩn trương bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc.
          Quán triệt các  Chỉ thị Nghị quyết của Trung ương và các cấp uỷ cấp trên, chi bộ An Lạc đã nhanh chóng tổ chức thực hiện lãnh đaọ quân dân xã nhà chuyển từ thời bình sang thời chiến, triển khai các nhiệm vụ cấp bách, trọng yếu trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1947 - 1949).
 
 
          I. THỰC HIỆN CÔNG TÁC BỐ PHÒNG  VÀ TIÊU THỔ KHÁNG CHIẾN.
          Chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của tỉnh và huyện ngay từ đêm 19/12/1946. Ban chấp hành chi uỷ  chi bộ An Lạc đã họp mở rộng gồm chủ trì các uỷ ban kháng chiến, uỷ ban hành chính, mặt trận và các đoàn thể quần chúng để phổ biến và quán triệt chỉ thị, mệnh lệnh của huyện và tỉnh về nhanh chóng  chuyển toàn bộ hoạt động quân dân, chính Đảng  trong xã từ thời bình sang thời chiến. Ngày 20/12/1946 toàn xã họp mít tin phổ biến lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch và báo cáo các nhiệm vụ cáp bách trước  mắt. Từ đây nhân dân, lực lượng vũ trang An Lạc bước vào một giai đoạn cách mạng mới nhằm thực hiện thắng lợi  nhiệm vụ trung tâm hàng đầu là xây dựng và bảo vệ hậu phương chi viện chiến trường  trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
          1. Khẩn trương làm tốt công tác bố phòng.
          An Lạc là xã địa đầu của Nghi Xuân và Hà Tĩnh, nên có vị trí đặc biệt xung yếu, là trọng điểm bố phòng của huyện và tỉnh.
          Nhận thức được vị trí quân sự quan trọng của xã nhà nên chi bộ và chính quyền xã, trực tiếp là uỷ ban kháng chiến xã đã tập trung chăm lo động viên, tổ chức toàn dân, lấy lực lượng dân quân du kích làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bố phòng, sẵn sàng tác chiến, đánh địch cả đường sông và đường không, đường bộ.
          Trung đội du kích bán tập trung từ 40 cán bộ chiến sỹ phát triển thành 2 trung đội gồm 60 người, mỗi đơn vị có 3  tiểu đội được trang bị mìn, lưu đạn và 1/3 có súng trường, súng kíp, làm nhiệm vụ trực chiến cả ngày và đêm ở các điểm chốt quan trọng. Tại ngã ba Da Lách xã huy động gần 100 dân quân đắp công sự chiến đấu theo hướng dẫn của huyện  được tỉnh tăng cường cho xã  ba khẩu đại liên để bố trí ở Da Lach nhằm vào ba hướng ra Vinh, vào thị xã và xuống Hội Thống nhằm sẵn sàng đối phó khi chiến sự xẩy ra.
          Ở đoạn sông qua bến phà Bến thuỷ theo kế hoạch chung của 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, xã An Lạc có nhiệm vụ chuẩn bị lực lượng và phương tiện để sẵn sàng đóng cọc gỗ, tre xuống lòng sông Lam khi có lệnh của cấp trên.
          Để đề phòng địch tấn công bằng nhảy dù đường không, xã đã huy động 1200 cây tre vót chông nhọn dài 2 mét cắm ở các bãi rộng ven núi Hồng Lĩnh và ven sông lam, bãi bằng trên đỉnh núi Lần và chi viện cho các xã bạn ở khu vực I trong kế hoạch phòng thủ tác chiến của huyện.
          Lực lượng công an phối hợp với dân quân tổ chức lập trạm canh gác, kiểm soát giấy tờ người lạ mặt đi qua ngã ba Da Lách. Các đội trinh sát, cứu tải thương, tản cư, sơ tán và giao thông liên lạc được tăng thêm quân số, báo động kiểm tra thực lực..
          Xã lựa chọn một số du kích  gan dạ như các anh Đệ, Ích...lập tiểu đội cảm tử trong đội hình của đơn vị cảm tử của huyện do đ/c Hà Văn Viện ( quê Tiên Điền) chỉ huy sẵn sàng  làm nhiệm vụ đánh xe tăng, xe bọc thép của địch khi có chiến sự.
          Nơi làm việc của cán bộ xã, ở trường học, chợ và ngã ba  Da Lách... xã huy động thanh niên, dân quân đào hầm trú ẩn và hào giao thông đề phòng phi pháo địch, đánh phávv...
          Các hoạt động bố phòng được tiến hành khẩn trương, nhịp nhàng. Mọi sinh hoạt trong xã từng  bước thực hiện nếp sống quân sự hoá thời chiến.
          2. Hoàn thành nhanh, gọn công tác tiêu thổ kháng chiến. 
          Thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ Tịch  ngày 06/2/1947.
          " Ta vì nước mà hy sinh chịu khổ một  lúc, đến ngày kháng chiến thắng lợi ta sẽ cùng nhau kiến thiết, sửa sang lại nào có khó gì.  Các chiến sỹ  ở trước mặt trận  hy sinh xương máu cho tổ quốc, họ không tiếc, không lẽ lại tiếc một đoạn đường, một cái cồng hay một ngôi nhà mà để cho Pháp lợi dụng đặng đánh tổ quốc ta". Với lòng yêu nước nồng nàn ngày 20/3/1947 hơn 300  dân quân du kích  và thanh niên làm lực lượng xung kích cùng toàn dân xã An Lạc đã ra quân thực hiện công tác  tiêu thổ kháng chiến theo kế hoạch và mệnh lệnh của Ban phá hoại huyện Nghi Xuân.
          Các trục đường số 01, tỉnh lộ Da lách đi Hội thống và huyện lộ Trung lộc đi Cương gián chạy qua địa bàn  xã nào thì xã đó tổ chức lực lượng phá đường đào hào, đắp ụ nhằm ngăn không cho xe cơ giới chạy qua địa bàn xã mình.
          Nhiệm vụ đó được triển khai thực hiện  cứ 300 mét đắp một ụ đất cao 5 m có chu vi đáy 70 m và dào một hố giữa  đường sâu 3 m rộng 2m dài 5m.Chỉ trong hai ngày ra quân xã An Lạc đã hoàn thành khối lượng đào và đắp 1200m3 đất.
          Cuối tháng 3/1947 An Lạc còn tổ chức tốt việc đón tiếp 30 hộ dân thành phố Vinh tỉnh Nghệ An tản cư lau dài sang địa phương gồm 2 hộ buôn thuốc  bắc, 5 hộ buôn tạp hoá, 10 hộ thợ may, 13 hộ làm các nghề cắt tóc, sữa đồng hồ, xe đạp, rèn, mộc, gò, hàn...
          Tiếp đến đầu tháng  4/1947 về sau An Lạc hàng tháng đều tiếp nhận thêm một số bà con Bình Trị Thiên  tản cư  ra và ở Vinh tản cư sang.
          Để kịp thời phục vụ bộ đội hành quân vượt sông Lam được an toàn và nhanh chóng uỷ ban kháng chiến An Lạc đã giao trách nhiệm cho 2 ông Trung và Nhánh quản lý 20 thuyền dân vạn chài ở xóm  An Thuỷ sẵn sàng phục vụ bộ đội qua sông cả ngày và đêm.
          Riêng làng Khải Mông thời gian này còn thuộc xã Giang Nam cùng đã thực hiện phá đồn Khải Mông và đường tỉnh lộ qua làng.
            II. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG VỮNG MẠNH SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG.
          Trước tình hình quân Pháp mở rộng đánh chiếm Quảng Bình và sử dụng tàu chiến phong toả ven biển uy hiếp trực tiếp Hà Tĩnh. Nhiệm vụ xây dựng lực lượng dân quân du kích đủ sức chiến đấu bảo vệ quê hương, sẵn sàng bổ sung lực lượng cho các chiến trường, trực tiếp là Bình Trị Thiên ngày càng khẩn trương, cấp bách.
          Để giúp cấp uỷ đảng và chính quyền  xã trong công tác  quân sự nói chung, trực tiếp quản lý, chỉ huy dân quân du kích  nói riêng cuối 1947 Ban chỉ huy xã đội được thành lập gồm 3 cán bộ ( xã đội trưởng, xã đội phó và chính trị viên). Đồng chí xã đội trưởng phải là đảng viên uỷ viên UBKC xã. Chính trị viên xã đội nhất thiết phải là chi uỷ viên.
          Cùng với việc thành lập ban chỉ huy xã đội ( gọi tắt là xã đội) ở các làng bên cạnh thôn trưởng và tổ trưởng Đảng có ban chỉ huy thôn đội giúp việc về chỉ huy, quản lý dân quân gồm 2 người: Thôn đội trưởng và thôn đội phó lựa chọn đảng viên, đoàn viên ưu tú phụ trách.
          Để tăng cường sức chiến đấu cho lực lượng dân quân du kích chi bộ quy định 100% đảng viên phải tham gia dân quân du kích.
          Về biên chế lực lượng bảo đảm quân số dân quân du kích  có số lượng từ 8 - 10% dan số, không kết nạp vào dân quân du kích những người ốm yếu, phần tử  xấu về tư cách và chính trị phức tạp.
          Đến cuối 1947 ở An Lạc tổ chức dân quân du kích có 4 trung đội và 3 tiểu đội độc lập tổng quân số 190 người đạt 7,6% dân số.
          Về trang bị của dân quân du kích chủ yếu là vũ khí thô sơ, 1/2 có dao, kiếm, mã tấu, một số du kích  có súng, lựu đạn, mìn, huyện tăng cường 3 đại liên chốt ở ụ chiến đấu ở Da Lách nhưng đầu 1948 huyện rút để trang bị cho C45 bộ đội địa phương mới thành lập.
          Để có vũ khí cho dân quân du kích đầu 1948 huyện đội trang bị thêm 10 súng trường, 100 quả lưu đạn, một số đạn súng  trường và mìn. Đây là số vũ khí  của tỉnh đội và quân khu sản xuất tăng cường  cho các xã trọng điểm ven biển và nội địa. An Lạc là xã nằm trong diện ấy.
          Thực hiện Nghị quyết của tỉnh uỷ Hà Tĩnh về chủ trương " Một năm xây dựng dân quân". Từ cuối 1948 công tác xây dựng dân quân du kích được chi bộ và chính quyền xã tập trung lãnh đạo nên có nhiều chuyển biến, số lượng toàn xã  tăng từ 7,6% lên 10,4%. Trang bị vũ khí thô sơ, tự tạo 100% quân số xoá tình trạng sử dụng gậy gộc làm vũ khí. Ngoài giáo, mác còn phát triển chông sắt tự tạo.
          Học tập và thi đua với Can Lộc “ Tuần lễ đỡ đầu dân quân”, giữa năm  1949 cùng với các xã trong huyện An Lạc đã phát động toàn dân tham gia " Tuần lễ đỡ đầu dân quân"  Chỉ trong một tuần lễ phát động nhân dân đã tự nguyện ủng hộ dân quân: 12 mẫu ruộng đất, 3 con bò, 2 bê, nhiều nông cụ như cày bừa, cuốc, bàn vét... và hàng trăm các loại dụng cụ gia đình như chum, vại, bát đĩa, nồi đồng, mâm đồng, vòng bạc... trị giá lên đến hơn 1 triệu đồng bạc tài chính.
          Đây là một cuộc vận động có ý nghĩa chính trị về kinh tế sâu sắc, thể hiện lòng yêu nước  nồng nàn của nhân dân.
          Để giúp quản lý sử dụng  tài sản dân ủng hộ, Ban chỉ huy xã đội đã lập trại sản xuất của dân quân, cày cấy chăn nuôi thu hoạch gây quỹ để cung cấp cho dân quân du kích trong huấn luyện, công tác trực chiến, tuần tra ban đêm và mua sắm thêm vũ khí.
          Ngoài nam dân quân lực lượng nữ  dân quân và nữ du kích phát triển ngày một nhiều. Chị em được tổ chức riêng từng tiểu đội nằm trong biên chế của các trung đội.
          Công tác huấn luyện quân sự, học tập chính trị, học thi bắn súng, ném lựu đạn, gài chông mìn và tổ chức đánh trận gỉa được duy trì nề nếp có tác dụng thiết thực nâng cao sức chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.
          Để tiện cho sinh hoạt, lực lượng lão quân cả xã được biên chế thành một trung đội gồm 60 cụ ông tuổi từ 55 trở lên. Hoạt đông của lão quân ở An Lạc khá phong phú. Ngoài việc giúp trại dân quân sản xuất, các cụ còn đan bồ, đẽo đón gánh tặng anh chị em đi dân công hoả tuyến.
          Được chi bộ, chính quyền và toàn dân tận tình chăm sóc, giúp đỡ, anh chị em dân quân du kích đã tỏ rõ vai trò nòng cốt xung kích trong mọi nhiệm vụ sản xuất, tòng quân, dân công hoả tuyến, chống bão lụt, tuần tra cach gác bảo vệ xóm làng.
          Năm 1948 học tập làng kháng chiến Cự Nẫm tỉnh Quảng Bình, thi đua đuổi kịp làng kháng chiến  Hội Thống lá cờ đầu của huyện; xã An Lạc đã huy động vật liệu và công sức của toàn dân xây dựng làng kháng chiến ở ba thôn trong xã. Ngoài việc sử dụng tre, gỗ rào làng, lập điếm canh gác, còn tổ chức đào hầm  trú ẩn, hào giao thông ngang dọc và xây dựng công sự chiến đấu, quy định nội quy bảo mật phòng gian, lập tổ " ngụ gia liên báo" để giữ gìn trì an. Cuộc sống trong làng từng bước thực hiện nếp sống quân sự hoá, tạo nên khí thế sôi động, kỷ cương, đoàn kết nhờ đó các tệ nạn xã hội  và các tập tục lạc hậu được ngăn chặn, đẩy lùi.
            III. RA SỨC CHI VIỆN, CHUNG SỨC CHIẾN ĐẤU VỚI QUẢNG BÌNH.
          Nhận rõ trách nhiệm nặng nề của một tỉnh hậu phương trực tiếp của Quảng Bình, đại hội đại biểu tỉnh đảng bộ Hà Tĩnh và Nghi Xuân năm 1948 đã xác định " đánh mạnh địch ở Quảng Bình là thiết thực bảo vệ Hà Tĩnh" và nêu quyết tâm " Hà tĩnh sẵn sàng đáp ứng sức người sức của theo yêu cầu của Quảng Bình".
          Để thực hiện nhiệm vụ chung sức chiến đấu với Quảng Bình từ cuối 1947 về sau xã An Lạc đã thường xuyên làm tốt công tác tòng quân, đi dân công hoả tuyến, cử con em vào bộ đội địa phương huyệnvà tỉnh cơ động  vào tác chiến ở Quảng Bình.
          Hai năm 1948 và1949 An Lạc đã có 37 thanh niên tòng quân hầu hết số thanh niên tòng quân đều được biên chế vào E103 bộ đội địa phương Hà Tĩnh và E18 bộ đội địa phương Quảng Bình.
          Cũng trong thời gian trên An Lạc đã huy động 4 đợt dân công hoả tuyến, mỗi đợt 1 trung đội quân số 40 người.
          Các đơn vị dân công hoả tuyến đã vượt hàng trăm km đường rừng hiểm trở thường xuyên bị địch uy hiếp để gánh gạo, thực phẩm, súng đạn, vải vóc, thuốc men kịp thời chi viện vật chất cho quân dân Quảng Bình đánh địch thắng lợi.
            IV. RA SỨC THI ĐUA ÁI QUỐC XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG VỮNG MẠNH.
          Tháng 6/1948 Hồ Chủ Tịch kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân " thi đua ái quốc " vừa kháng chiến vừa kiến quốc nhằm  tăng tiềm lực  quốc phòng và kinh tế đưa cuộc kháng chiến ngày càng phát triển toàn diện.
          Với khẩu hiệu " người người thi đua" , " ngành ngành thi đua"  nhân dân xã An Lạc trăm người như  một đã hưởng ứng và thực hiện có kết quả  phong trào thi đua ái quốc, đã giành nhiều thành tích trong sản xuất, văn hoá giáo dục, xây dựng đời sống.
          1. Đẩy mạnh sản xuất.
          Thực hiện quyết tâm:
"...Ruộng rẫy là chiến trường
Cuốc cày là vũ khí
Nhà nông là chiến sỹ
Hậu phương thi đua với tiền phương" ( Lời Hồ Chủ Tịch)
          Nhân dân An Lạc đã sôi nổi tiến quân mạnh mẽ vào mặt trận sản xuất nông nghiệp với tư thế của người chiến sỹ ngoài mặt trận, sẵn sàng đổ mồ hôi, công sức, tiền bạc cho sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi để có đủ lương thực,thực phẩm tự túc và đóng góp cho kháng chiến.
           Ban thi đua xã do đông chí bí thư chi bộ Nguyên Liệu làm trưởng ban cùng BCH nông hội xã đã vạch ra kế hoạch, chỉ tiêu thi đua đưa về các thôn mở hội nghị toàn dân hiến kế thực hiện.
          Trong nông nghiệp các biện pháp  liên hoàn " nước, phân, cần, giống" được bà con nông dân thực hiện sôi nổi. Để có nước cho cây lúa nhất là dịp lúa trổ và trỉa  vụ mùa  được các hộ nông dân thực hiện bằng biện pháp, " Tát nước chống hạn cả ngày và đêm". Từng thôn tổ chức đào mương dẫn nước từ  các khe suối  trong núi Hồng Lĩnh ra các  cách đồng để chống hạn.
          Các chi đoàn thanh niên tổ chức các chiến dịch làm phân xanh bằng cắt các loại lá cây về băm nhỏ ủ với phân chuống và phát triển cào cở lúa bằng tre để chăm sóc đồng ruộng.
           Cùng với phát triển cây lúa, Nông hội xã  hướng dẫn nông dân trồng thêm màu như khoai, đỗ, trên diện tích vụ mùa không có nước. Đặc biệt một số  hộ đã trồng bông dệt vải, trồng dâu nuôi tằm  tự túc được mặc cho cả nhà.
          Chị em phụ nữ đẩy mạnh chăn nuôi, đề ra chỉ tiêu thi đua mỗi hội viên nuôi một con lợn, 10 con gà hoặc vịt. Dân quân du kích  tổ chức thi đua nuôi trâu bò  cày kéo, các cháu thiếu nhi thi đua chăm sóc trâu bò béo khoẻ. Phụ lão thi đua mỗi cụ trồng 5 cây lấy gỗ và ăn quả trong vườn. Cả xã bừng bừng khí thế " ngày  ngày thi đua, người người thi đua" .
          Nhờ mưa thuận, gió hoà cộng với sức người chăm sóc nên hai năm 1948 và 1949 ở An Lạc - Khải Mông liên tiếp được mùa, nạn thiếu ăn giáp hạt được thu hẹp, năng suất lúa vụ chiêm những hộ sản xuất giỏi đạt xấp xỉ 1 sào 1 tạ thóc.
          2.Phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện đời sống mới.
          Nhận thức vai trò chìa khoá của văn hoá giáo dục trong việc nâng cao dân trí, cải thiện đời sống cho nhân dân nên trong điều kiện ngân sách xã chưa có nguồn thu, mọi hoạt động đều dựa  vào  sự đóng góp của dân chi bộ và chính quyền xã An Lạc trong các năm 1947, đến 1949 đã thường xuyên chăm lo công tác xã hội và đã có nhiều biện pháp  linh hoạt, thu được nhiều kết quả khá toàn diện.
          - Về văn hoá thông tin, văn nghệ: Các đội văn nghệ của xã, tổ văn nghệ của các làng do đoàn Thanh niên phụ trách  có hàng chục hạt nhân. Dựa vào các bậc cao tuổi truyền lại các  làn điệu dân ca xứ Nghệ và tự biên tự diễn các tiết mục ca kịch, hài kịch, đối đáp dân ca, biểu diễn dân vũ, nhằm. Động viên  phong trào  tòng quân đi dân công,  khai hoang phục hoá, chống hạn, nhiều tiết mục thu hút đông đảo  người xem để lại ấn tượng sâu sắc.
          Trong những buổi sinh hoạt dân quân, đoàn thể và họp xóm họp làng, hội nghị ở xã bao giờ cũng có tiết mục " Cây nhà lá vườn".
          Các xóm đều tổ chức chòi phát thanh. Hàng ngày nhân dân được nghe tin chiến sự, được phổ biến chủ trương của xã, chính sách Nhà nước qua những chiếc mo cau vấn thành cái loa truyền tiếng nói từ trên chòi cao ỡ giữa xóm.
          Mỗi đợt thi đua, mỗi ngày kỷ niệm xóm làng lại có nhiều khẩu  hiệu viết bằng vôi trên lá cót , trên nong, mẹt đặt dọc đường làng thu hút sự chú ý của người qua đường.
          Hai hình thức phổ biến trong sinh hoạt văn hoá văn nghệ những năm đầu kháng chiến chống Pháp là đêm lửa  trại liên hoan văn nghệ và đêm đại náo đốt đuốc diễu hành hô vang khẩu hiệu  của thanh thiếu nhi.
          + Về giáo dục: Trường tiểu học bán công niên khoá 1948 -1949 được phát triển đủ 5 lớp với trên 200 học sinh và 5 thầy giáo. Nhiều em đã tốt nghiệp tiểu học  tiếp tục học trung học ở trong huyện hoặc học ở Đức Thọ hay vào Can Lộc.
          Phong trào bình dân học vụ thu hút đông đảo người tham gia  và duy trì nề nếp, cuối 1948 xã An Lạc được công nhận là xã  thanh toán nạn mù chữ  trong độ tuổi ở các làng không có đạo, (Riêng  giáo xứ Gia hoà người mù chữ trong độ tuổi còn trên 50%, phần đông là phụ nữ đã  có chồng con).
          + Công tác vận động thực hiện đời sống mới đã đi vào từng hộ dân. Nông hội vận động hội viên làm hồ xí lấy phân bón ruộng. Phụ nữ vận động hội viên không thả rông lợn,thanh niên và dân quân có phong trào vận động gia đình dời chuồng lợn, chuồng trâu xa bếp nấu ăn, xa nơi ăn uống hàng ngày. Các em thiếu nhi hàng tuần dọn vệ sinh đường làng ngõ xóm nhằm sạch làng, tốt ruộng. Các phụ lão chung sức trồng cây ven đường,ở trụ sở xã, ở trường học.
          Việc thực hiện ăn chín  uống sôi, ngủ màn, đào giếng nước, làm nhà tắm cho phụ nữ  từ 1948 trở đi được đông đảo bà con thực hiện từng phần việc, 1/4 số hộ trong xã thực hiện đầy đủ các việc trên.
          Năm 1948 phong trào hợp tự bài trừ mê tín dị đoan được toàn dân hưởng ứng. Đáng tiếc là do nhận thức chưa đúng nên có làng phá, dỡ cả đình chùa, để  hoang phế miếu mạo,. không bảo quản sách vở, sắc phong, tế khí của ông cha gây tổn thất không thể bù đắp.
          V. XÂY DỰNG CHI BỘ TỰ ĐỘNG CÔNG TÁC,  CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN,MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ.
          1. Xây dựng chi bộ.
          Được sự quan tâm chỉ đạo  của huyện uỷ Nghi Xuân, công tác xây dựng đảng tự động công tác ở An Lạc có nhiều chuyển biến tích cực cả về tư tưởng, tổ chức.
          Tháng 3/1947 Chi bộ tổ chức học tập thư của Hồ Chủ Tịch gửi các đồng chí Trung bộ tháng 02/1947. Với tình cảm đồng chí, lấy tư cách một đồng chí già, Chủ tịch Hồ Chí Minh  đã chân thành phê bình những khuyết điểm phổ biến đang tồn tại trong đảng bộ Trung bộ là: Hẹp hòi, địa vị, cục bộ địa phương, người nghiêm khắc lên án những đảng viên, cán bộ có đầu óc " Quan cách mạng", đầu cơ trục lợi vun vén cá nhân, tham ô công quỹ, xa rời nhân dân. Trong bức thư đầy tâm huyết ấy Người ân cần dặn dò mỗi cán bộ đảng viên phải lo tu dưỡng đạo đức cách mạng, chí công vô tư, cần kiệm liêm chính, tiên phong gương mẫu, sẵn sàng chịu đựng hy sinh, gian khổ, gần gủi và lắng nghe ý kiến của nhân dân, thực hành tốt tự phê và phê bình để không ngừng tiến bộ...
          Chi bộ đã liên hệ chung và riêng những tồn tại thiếu sót mà Hồ Chủ Tịch nêu trong thư  và bàn biện pháp khắc phục.
          Việc học tập thư Hồ Chủ Tịch có ý nghĩa như một đợt chỉnh huấn chính trị sâu sắc, tạo sự thống nhất về tư tưởng trong chi bộ.
          Cuộc vận động " chi bộ tự động công tác" được triển khai đầu năm 1948 ở An Lạc đã đề cao tinh thần cách mạng tiến công, chủ động đề ra nhiệm vụ để thực hiện, chống được tư tưởng ỷ lại chờ đợi cấp trên có chỉ thị, Nghị quyết mới họp bàn công việc. Qua thực hiện cuộc vận động sức chiến đấu của Chi bộ được tăng lên, năng lực công tác của chi uỷ được bồi dưỡng, tính thu động của từng cán bộ, đảng viên được khắc  phục.
          Về mặt tổ chức chi bộ đã có sự phát triển  mới từ một chi bộ khi mới thành lập có 6 đảng viên và chi uỷ có 3 đồng chí qua hai nhiệm kỳ đại hội ( 1947, 1948) đến đầu 1949 chi bộ An Lạc đã có 42 đảng viên ( có 5 đảng viên thoát ly đi bộ đội và huyện điều động). số lương  chi uỷ cũng tăng lên 5 đồng chí, đồng chí Nguyễn Liệu liên tục làm bí thư từ 1947 đến 1949.
          Nhìn chung số đảng viên kết nạp từ 1947 - 1948 tuy số lượng không đông nhưng chất lượng tốt, vì trải qua thử thách trong phong trào các đoàn thể anh chị em đều là những quần chúng ưu tú, được giác ngộ về đảng. Song về trình độ văn hoá và lý luận còn thấp đã hạn chế  một phần năng lực lãnh đạo. Trải qua thực tiễn số đông đều là những đảng viên tốt, được dân tin yêu, số thiếu ý chí chiến đấu và vi phạm kỷ luật đảng đã được đào thải  kịp thời. Công tác phát triển đảng viên từ đầu 1949 đến đầu 1950 được thực hiện ồ ạt, chịu ảnh hưởng của phong trào thi đua ái quốc, nên chỉ đạo của cấp trên chia số lượng cho chi bộ An Lạc cũng như các chi bộ khác phải " thi đua kết nạp đảng viên mới". Chỉ trong vòng chưa đầy 1 năm chi bộ An Lạc đã kết nạp mới 26 đảng viên đưa tổng số đảng viên khi hợp  nhất xã cuối năm 1949 lên 68 đồng chí, gấp 11 lần lúc thành lập chi bộ.
          Do buông lỏng công tác giáo dục, rèn luyện đối tượng, mặt khác lãnh đạo lại hạ thấp tiêu chuẩn xem xét kết nạp đảng, một bộ phận cán bộ đảng viên mang nặng đầu óc họ tộc, nên kéo bè, kéo cánh đưa những người trong anh em, họ hàng, bà con nội ngoại không đủ tiêu chuẩn vào đảng.
          Mặt khác việc kết nạp ồ ạt nên công tác giáo dục, quản lý đảng viên mới lại không chặt chẽ do đó chất lượng thấp, một bộ phận đảng viên không hơn quần chúng, thậm chí có người còn bị thoái hoá, biến chất.
          Tình trạng phát triển Đảng viên theo kiểu phong trào ở Chi bộ An Lạc trong năm 1949 cùng là tình trạng chung của các Đảng bộ vùng tự do ở nước ta nên đầu năm 1950 trung ương Đảng đã có chỉ thị tạm thời đình chỉ việc phát triển đảng viên ở các chi bộ nông thôn thường quen gọi là  đóng cửa kết nạp đảng. Từ đây cho đến phát động giảm tô cuối 1953 việc phát triển đảng viên không thực hiện.
          2. Củng cố chính quyền.
          Thực hiện sự chỉ đạo của trung ương tháng 5 năm 1947 hợp nhất   hai uỷ ban hành chính và uỷ ban kháng chiến từ xã trở lên liên khu, thành một uỷ ban với tên gọi: Uỷ ban kháng chiến hành chính xã. Song song với việc hợp nhất cơ cấu thành phần đội ngũ cốt cán trong các cấp chính quyền cũng có sự thay đổi như bố trí một số người ngoài đảng nhiệt tình cao, có năng lực công tác tham gia Uỷ ban kháng c hiến hành chính cấp xã, đồng thời cơ cấu Uỷ ban kháng chiến hành chính cấp xã từ 5 người đến 7 người. Đồng chí Hồ Ngọc Liễn được bầu làm chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính xã, và Nguyễn Hảo ( giáo dân); giữ chức vụ Phó chủ tịch.
          Các cán bộ chủ trì trong UBKCHC trên duy trì chức vụ liên tục cho đến cuối năm  1949 hợp xã  mới thay đổi công tác.
          Ngoài 2 đồng chí chánh phó chủ tịch, có các uỷ viên, Quân sự, Công an kiêm Tư pháp, Tài chính và Văn hoá giáo dục, giúp việc Uỷ ban kháng chiến hành chính xã có thủ quỹ, văn phòng, bưu tá.
          3. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể và Hội đồng nhân dân.
          Từ cuối 1947 đến cuối 1949 song song với Mặt trận Việt Minh có thêm Mặt trận  Liên Việt. Hoạt động của hai tổ chức này đặt dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và sự phối hợp hỗ trợ của UBKCHC xã  Chủ tịch Mặt trận Việt Minh do đồng chí Bí thư Chi bộ Nguyễn Liệu kiêm nhiệm, còn chủ tịch Mặt trận Liên Việt là nhà sư Phạm Xuân Diện.
          Các đoàn thể quần chúng ở xã bao gồm: Đoàn thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc,  Hội Nông dân cứu quốc, Phụ lão và thiếu niên nhi đồng, Hội mẹ chiến sỹ. Cuối 1947 có thêm Hội liên hiệp thanh niên và Hội liên hiệp phụ nữ nhằm mở rộng, thu hút các đối tượng thanh niên và Phụ nữ vào tổ chức giới tính, nòng cốt của hai Hội này là cán bộ đoàn viên, hội viên thanh niên cứu quốc và Phụ nữ cứu quốc.
          Riêng trong bà con giáo dân  sau khi Uỷ ban đoàn kết công giáo Việt Nam ra đời việc xúc tiến  thành lập tổ chức này ở xứ đạo Gia Hoà  do thiếu sự ủng hộ của linh mục và ban hành giáo nên chưa đem lại kết quả.
            Về tổ chức Hội đồng nhân dân xã do điều kiện chiến tranh nên không tiến hành được tổ chức bầu cử 2 năm một lần vì  luật định song sinh hoạt mỗi năm hai lần. Tuy hoạt động của Hội đồng nhân dân còn chưa thoát khỏi  hình thức, chưa làm tốt chức năng là cơ quan cao nhất về quyền lực ở địa phương, song các nghị quyết của Chi bộ đã được HĐND xã đưa ra thảo luận và ra nghị quyết thực hiện trong cáckỳ họp.
          Nhờ chăm lo công tác mặt trận, Hội đồng nhân dân và các  đoàn thể quần chúng ở An Lạc trong những năm 1947 - 1949 tạo được sự  nhất trí trong nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn làng xã, bảo đảm đoàn kết  lương giáo.
          Sức  mạnh tổng hợp trong những năm đàu kháng chiến chống Pháp ở An Lạc đã tạo nên phong trào cách mạng sôi nổi liên tục của toàn dân.
          Nhân dân An Lạc đã hăng hái động viên con em đi bộ đội, dân công hoả tuyến hoàn thành chỉ tiêu huyện điều động.
          Phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn của quê hương,nhân dân đã hăng hái,  tự nguyện tham gia mua công phiếu kháng chiến, công trái quốc gia, ủng hộ tuần lễ  đỡ đầu dân quân, bán lúa khao quân, lập hũ gạo kháng chiến góp phần rất lớn trong việc tạo nguồn tài chính cho ngân sách quốc gia trong kháng chiến.
          Đặc biệt trong những năm tháng gian lao và anh dũng vô cùng  khó khăn thiếu thốn của thời kỳ đầu kháng chiến nhân dân An Lạc, nhất là các bà mẹ chiến sỹ đã tận tình giúp đỡ bộ đội, cán bộ mỗi khi hành quân qua An Lạc hay đóng quân ở trong xã. Sự đùm bọc cưu mang bà con ở Vinh và Bình Trị Thiên đến tản cưu dài ngày nói lên tình cảm " người trong một nước phải thương nhau cùng" của nhân dân An Lạc. Đã hơn nữa  thế kỷ trôi qua những anh bộ đội Cụ Hồ  có dịp qua cây Da Lách dừng chân  ở bờ nam Bến Thuỷ vẫn không quên bát nước chè xanh đậm tình cá nước và thái độ niềm nở, chân tình của các mẹ, các chị, các cụ chèo đò ngang qua sông Lam trên.
            C. CHI BỘ AN GIANG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HOÀN THÀNH CÁC NHIỆM VỤ TRONG NHỮNG NĂM CUỐI THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1950 - 1954).
          Thực hiện chủ trương của liên khu 4 và tỉnh Hà Tĩnh, tháng 9/1949 cùng với các xã nhỏ trong tỉnh, xã  An Lạc và xã Giang Nam được hợp thành xã lớn lấy tên là An - Giang  gồm có 7 thôn là Thượng Thôn, Trung Lộc, Gia Hoà, Khải Mông, Tiên Cầu, Tả Ao, Ngọc Lâm.
          Cùng với việc hợp xã,  hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền mặt trận và các đoàn thể quần chúng cũng được hợp nhất và cơ cấu lại bộ máy.
          Về Đảng, Chi bộ An Giang được thành lập 9/1949 gồm 138 Đảng viên ( An Lạc cũ có 68, Giang Nam cũ 70) và sinh hoạt ở 7 tổ Đảng ở 7 làng.

          Ban chấp hành có 7 người là:

          Đậu Duy Mai Bí thư
          Hồ Sĩ Thuật Phó Bí thư Chủ tịch UBKCHC.
          Lê Văn Trung tổ chức ( Đảng vụ)
          Lê Tính Chánh văn phòng
          Đậu Trọng Nông hội
          Trần Liếu xã đội
          Nguyễn Liệu Mặt trận

Từ đây cùng với chi bộ, Ban chấp hành chi uỷ đã tập trung lãnh đạo nhân dân xã An Giang thực hiện các nhiệm vụ trong thời kỳ cuối cuộc kháng chiến chống pháp ( 1950 - 7/1954). Đây là giai đoạn toàn Đảng toàn dân nổ lực vượt bậc góp phần cao nhất để đưa cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta bước sáng thời kỳ mới. Tích cực chuẩn bị tổng phản công và đánh thắng thực dân Pháp buộc chúng phải ký kết hiệp định Giơnevơ ( 7/1954).
I. THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH MỚI CỦA ĐẢNG Ở NÔNG THÔN.
1. Thực hiện giảm tô 25%.
Để thực hiện bồi dưỡng sức dân, nhất là nông dân nghèo  thiếu ruộng làm ăn còn phải lĩnh canh ruộng của các nhà giàu, năm 1949 chính phủ ban hành sắc lệnh giảm tô 25%. Sắc lệnh này bắt đầu được thực hiện ở các tỉnh vùng tự do từ đầu năm 1950.
Việc giảm tô 25% đem lại quyền lợi thiết thực cho nông dân nghèo song động chạm đến quyền lợi sát sườn của các nhà giàu, có ruộng đất phát canh thu tô. ở An Giang nói chung  và An Lạc  cũ nói riêng ngoài các chủ điền người trong xã, nông dân nghèo còn lĩnh canh nhiều ruộng của một số chủ điền như Thị Lựu ở Tiên Điền, Châu Dục ở Tam Xuân ( Xuân Hồng) và một số nhà giàu ở Nghệ An...
Nhờ cấp uỷ, tổ đảng, các đoàn thể và mặt trận Liên Việt tích cực vận động, thuyết phục nên số đông các điền chủ đều thực hiện giảm tô 25% đối với tá điền. Một số hộ day dưa, tìm cách chống chế; nông hội xã và các thôn kịp thời chỉ đạo các hộ tá điền kiên quyết đấu tranh buộc họ phải thực hiện đúng pháp luật.
Song song với việc thực hiện giảm tô 25% chi bộ, UBKCHC xã và nông hội, Mặt trận xã An Giang đã chỉ đạo bà con nông dân nghèo đấu tranh, thuyết phục vận động các hộ có trâu bò cho lĩnh rẽ thực hiện       sự thoả thuận hai bên, đảm bảo sự công bằng thoả đáng cả chủ và người lĩnh rẽ đều có lợi. Cùng với việc thực hiện xoá nợ cũ, đổi bạc hai tiền cho nông dân chuộc lại ruộng đất cầm cố, bán có thời hạn sau ngày cách mạng tháng 8/1945 thành công và tiếp đến chia lại công điền, công thổ, thực hiện người làm thuê ngày 8 giờ, làm thêm ban đêm chủ phải trả thêm tiền công và bãi  bỏ các lễ tết vô lý đối với nhà giàu đã bước đầu đem lại quyền lợi cho nông dân nghèo, đời sống của họ giảm bớt túng thiếu, những người bần cùng phải đi hành khất chỉ là hạn hữu. Nông dân nghèo rất phấn khởi, con em của họ đã cắp sách đi học mọi công tác kháng chiến họ đều hăng hái tự giác tham gia.
2. Thực hiện chính sách thuế nông nghiệp (1951)
Nhằm bảo đảm sự công bằng xã hội và hợp lý trong việc huy động đóng góp của nhân dân đối với nền tài chính quốc gia, đồng thời chính phủ có nguồn lương thực đáp ứng nhu cầu càng lớn, cấp bách cho cuộc kháng chiến nên sau Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc  lần thứ 2 (2/1951) chính phủ ban hành nhiều chính sách mới về kinh tế tài chính trong đó có luật thuế nông nghiệp.
Thuế nông nghiệp là loại thuế đánh vào sản lượng ruộng đất của nông dân có ruộng theo cách tính luỹ tiến. Sau cách mạng tháng 8/1945 Nhà nước bãi bõ mọi thứ thuế, nay do tình hình cách mạng đòi hỏi chính phủ ban hành các sắc thuế nông nghiệp và công thương nghiệp.
Đây là một cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra khá phức tạp ở nông thôn, ảnh hưởng không chỉ đối với nhà giàu mà cả bà con nông dân, nhất là trung, phú nông. Vì vậy nó có tác động sâu sắc trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Nhờ được sự giúp đỡ của huyện, nên chỉ sau 3 tháng vừa tổ chức học tập, thảo luận sâu rộng trong toàn dân và việc bình mảnh, xếp hạng, định sản lượng, kê khai, lập bộ thuế cho từng hộ, từng thôn khá phức tạp, tốn công sức, đến tháng 9/1951 xã đã làm xong và thông báo cho toàn dân. Tháng 10/1951 công tác thu thuế nông nghiệp được triển khai.
Với lòng yêu nước nồng nàn của toàn dân, vai trò gương mẫu của cán bộ đảng viên nên việc thu thuế năm đầu tiên  kết quả nhanh gọn, chỉ trong 1 tuần lễ cả xã An Giang đã  hoàn thành mức thuế ghi thu huyện duyệt là 64 tấn 412 kg.
Song từ 1952 về sau công tác thuế nông nghiệp ở Hà Tĩnh, Nghi Xuân nói chung và An Giang nói riêng mỗi năm một khó khăn, không đạt chỉ tiêu huyện giao về cả số lượng và thời gian vì các nguyên nhân chủ yếu sau:
Do việc nhập bộ thuế không sát đúng với thực tế  trên đồng ruộng như việc phân mảnh định hạng có trường hợp quá cao so với thực thu hàng năm. Vì vậy mức thuế đối với số nhà giàu quá nặng. Trong cách tính thuế còn máy móc như không trừ phần giảm tô 25% trên diện tích  nhà giàu phát canh. Một số ruộng xa, xấu có hộ đã để hoang hoá, nông dân cày cấy không nạp tô cho nhà giàu cùng tính thuế cho họ…
Tỉnh và huyện do bị động về chỉ tiêu của Liên khu giao nên ép cơ sở xã và dân phải hoàn thành, không tính đến mùa màng có hộ mất, hộ không mất bình quân số thuế cả xã phải nạp xấp xỉ 30% tổng thu hoạch của dân. Mức huy động là quá cao. Sau chỉnh lý cuối 1952 đầu 1953 phải hạ xuống còn 25%.
Lãnh đạo gò ép nhân dân, qui kết chụp mũ những nhà giàu và một số cán bộ đảng viên không nạp đủ thuế, không thu đủ chỉ tiêu huyện giao càng làm cho nhân dân thắc mắc, nội bộ mất đoàn kết, cấp trên và xã thiếu nhất trí...
Do âm mưu của địch ráo riết tìm mọi thủ đoạn chống phá chính sách thuế nông nghiệp. Bọn phản động bên ngoài móc nối với một số phần tử xấu trong giáo dân và những hộ nhà giàu phải ra nhiều thuế để tìm cách đã kích cán bộ đảng viên, lôi kéo những người lạc hậu và chúng cố tình dây dưa trong việc nạp thuế.
Tình hình đó dẫn đến năm 1952 An Giang lúc đầu chỉ làm được 60% tổng số huyện giao. Huyện và tỉnh cũng cũng trong tình trạng đó nên bị Liên khu uỷ kiểm thảo. Cán bộ chủ trì ở xã bị qui kết, có đồng chí bị kỷ luật.
Sau khi Trung ương Đảng, chính phủ và Hồ Chủ tịch phát hiện ra tình hình đó đã có sự uốn nắn kịp thời, thực hiện việc chỉnh lý thuế nông nghiệp.
Những năm 1953, 1954 mùa màng không thuận, đê La Giang bị vỡ vụ mùa 1954 thất bát nặng nề, song do yêu cầu rất lớn về lương thực phục vụ cho công cuộc tổng phản công, việc huy động thuế nông nghiệp diễn ra khẩn trương. Chính phủ phải tạm vay một phần thuế năm 1954 để thu gộp vào thuế 1953.
Song khi thực hiện lại đề ra " thu thuế theo khả năng" một cách đồng loạt không xét đến thực lực cụ thể từng hộ nông dân, nhất là đối với trung nông  khá, phú nông, địa chủ. Tình trạng đó làm cho có hộ nhà giàu bán hết tài sản để đong thóc ngoài thị trường vẫn không đủ mức xã giao. Có hộ nông dân nạp xong thuế khả năng trong nhà hết thóc. Tuy căng thẳng, phức tạp song chi bộ đã lãnh đạo cơ bản hoàn thành được chỉ tiêu thuế hàng năm.
II. THỰC HIỆN CUỘC ĐẠI VẬN ĐỘNG SẢN XUẤT, TIẾT KIỆM, CẢI THIỆN VẬT CHẤT TINH THẦN CHO NHÂN DÂN, TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ HẬU PHƯƠNG.
Cuối 1951 đại hội Chi bộ An Giang họp lần thứ 2 sau ngày hợp xã nhằm kiện toàn cấp uỷ, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đại hội đại biểu tỉnh đảng bộ tỉnh và huyện giữa năm 1951.
Đại hội đã bầu chi uỷ mới gồm 9 đồng chí ( so với khi hợp xã tăng 2 người) đồng chí Đậu Duy Mai được tín nhiệm cử lại giữ chức vụ bí thư Chi bộ.
Về nhiệm vụ trước mắt đại hội đề ra 2  nhiệm vụ trọng tâm là:
          - Phục vụ tiền tuyến, bảo vệ hậu phương.
          - Đẩy mạnh sản xuất, cải thiện dân sinh, bảo đảm cung cấp cho tiền tuyến. Đây là thời gian Đảng và chính phủ đề ra cuộc đại vận động sản xuất và tiết kiệm, Tỉnh uỷ và UBKCHC tỉnh có chủ trương phát động trong năm 1952 "Vụ chiêm quyết thắng và vụ mùa chủ lực tổng phản công".
Mặc dù vụ mùa năm 1951 mưa lũ lớn làm vở đê La Giang và Hội Thống nhân dân An Giang bị thiệt hại nặng nề hơn 1/3 nhà bị ngập, bị hư hỏng, hơn 50% sản lượng lúa và màu bị thất thu. Đời sống nhân dân sau bão lụt rất khó khăn nhiều bề.
Trước tình hình phức tạp, nan giải đó chi bộ, chính quyền An Giang đã kịp thời vận động nhân dân tương trợ, giúp nhau trong khắc phục bão lụt, huy động dân quân  và thanh niên hơn 500 người vừa đắp đê Hội Thống vừa tham gia hàn khẩu đê La Giang. Nhờ sự nổ lực của toàn dân tình hình sớm được ổn định vào cuối 1951.
Thực hiện khẩu hiệu " tấc đất tấc vàng" Nông hội xã động viên và tổ chức nông dân các  làng khai hoang phục hoá hơn 25 ha đất kịp đưa vào sản xuất vụ mùa 1952. Đặc biệt phong trào làm thuỷ lợi nhỏ có trên 1000 người tham gia vừa khai mương  từ khe suối trong núi ra đồng vừa làm cống ngăn nước tưới cho gần 100 mẫu ruộng làng Khải Mông.
Học tập thi đua với anh hùng nông nghiệp Hoàng Hanh ở Nghệ An và chiến sỹ thi đua toàn quốc Trịnh Xuân Bái ở Thanh Hoá, nông dân An Giang sôi nổi thi đua cải tiến nông cụ, sử dụng cày 51 thay cày chìa vôi, dùng phân lèn, làm phân xanh, để bón đủ phân cho khoai, lúa, vừng lạc. Những nơi chủ động nước nhiều hộ đã cấy lúa bát  ngoạt thay lúa mùa để tránh lũ tháng 8...
Ngoài nghề nông xã phát động khuyến khích việc chăn nuôi trâu bò, lợn gà, ngan, vịt, thỏ để lấy thịt. Trồng rau muống trở thành phổ biến trong xã cả trên cạn, trong vườn và dưới ruộng. Các nghề phụ như dệt vải, dệt lụa, làm chổi đót, bện bị lác, cói, mộc, nung vôi, đốt gạch bắt đầu phát triển tăng thu nhập cho hàng trăm hộ. Nghề trồng cói được mở rộng không chỉ ở Ngọc Lâm mà những làng có ruộng lầy thụt ven sông Lam bắt đầu mở rộng diện tích.
Công tác vận động nông dân lập tổ đổi công, vần công phát triển mạnh mẽ thu hút trên 70% hộ tham gia, có làng tỷ lệ đến 90% . Nhờ đó các gia đình thương binh, liệt sỹ, bộ đội, dân công hoả tuyến, mẹ goá, con côi có điều kiện cày cấy, gặt hái kịp thời vụ, tình làng nghĩa xóm thêm mặn nồng.
Cuộc vận động tiết kiệm trong tiêu dùng, giảm ăn uống lãng phí trong hiếu, hỷ , giổ tết, không tiêu dùng xa  xỉ phẩm của địch được thực hiện ngày càng có nề nếp. Nhiều đám cưới theo đời sống mới được  mọi đôi lứa kết hôn thực hiện tại hội quán xóm.
Năm 1953 số học sinh 2 trường  tiểu học trong xã tăng gấp 2 lần so với năm 1949, công tác chống tái mù chữ và mở các lớp tiểu học bình dân cho người lớn tuổi được thực hiện có hiệu quả.
Hoạt động thông tin, văn nghệ được duy trì có nề nếp. Cuối năm 1952 xã An Giang mở đại hội chiến sỹ thi đua nông nghiệp có hơn 100 đại biểu đã chọn được 7 làng 7 chiến sỹ thi đua xuất sắc đi dự ở huyện.
Nhờ đẩy mạnh sản xuất tương đối toàn diện và thực hiện tiết kiệm triệt để trong tiêu dùng và tương trợ trong sản xuất nên tuy bão lụt gây thiệt hại lớn, việc huy động thuế nông nghiệp xấp xỉ 30% tổng sản lượng lúa hàng năm, nhưng đời sống nhân dân cơ bản  được ổn định, số đông có được cải thiện bước đầu. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao một bước đáng kể so với những năm 1946, 1949. Nạn đói giáp hạt trong ba năm 1951 đến 1953 bị đẩy lùi. Hậu phương thực sự được củng cố ngày càng vững chức và phục vụ đắc lực kịp thời cho tiền tuyến. Thắng lợi  có ý nghĩa to lớn đó đã tạo cho An Giang hoàn thành nhiệm vụ phục vụ chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954 thắng lợi đưa đến Hiệp định Giơnevơ (7/1954)
III. CHI VIỆN SỨC NGƯỜI SỨC CỦA CAO NHẤT CHO TIỀN TUYẾN TRONG NHỮNG NĂM CUỐI CUỘC KHÁNG CHIẾN.
1. Thực hiện tổng động viên nhân tài vật lực cho công cuộc gấp rút hoàn thành chuẩn bị tổng phản công.
Hội nghị cán bộ toàn quốc của đảng ( tháng 1/1950) đã chủ trương " Gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công trong năm 1950"  và đề ra khẩu hiệu hành động, "tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng".
Thực hiện chủ trương đó, Hội nghị Hội đồng nhân dân tỉnh họp tháng 4/1950 và đại hội Đại biểu đảng bộ tỉnh (tháng 6/1950) đã nêu cao quyết tâm "Hà tiĩnh không được thiếu người, không được thiếu của, không được thiếu một thứ gì cung cấp  cho kháng chiến".
Cùng với các xẫ trong huyện, chi bộ đảng và nhân dân xã An Giang rầm rộ bước vào thực hiện sắc lệnh tổng động viên  của Hội đồng chính phủ. Trong 6 tháng cuối năm 1950 toàn xã đã huy động 2 đợt tân binh và dân công hoả tuyến gồm 412 người (57 bộ đội, 365 dân công) và gần 1000 lượt người  đi sửa đường quốc lộ, tỉnh lộ, tu bổ đê La Giang,  Hội Thống. Tổ chức  tuần lễ kim khí cung cấp cho công binh xưởng  gần 1 tấn đồng, sắt, nhôm. Thu được hơn 50 tấn các loại quỹ công lương, lúa khao quân, thóc định giá và hơn 1 vạn đồng tiền mặt cùng nhiều khoản đóng góp khác.
Do chủ trương nóng vội của cấp trên và thực hiện tả khuynh của cấp dưới, nên ở An Giang cũng như ở cả tỉnh Hà Tĩnh và Liên khu 4 nói chung trong việc huy động nhân tài vật lực còn nặng về gò ép, mệnh lệnh, chưa nhằm đúng đối tượng nên huy động cả những hộ nghèo gây nên mất lòng dân.
Trước tình hình đó Hồ Chủ Tịch đã gửi thư  cho đồng bào cán bộ Liên khu 4; Người xin lỗi nhân dân và chỉ thị cho đảng bộ Liên khu và các tỉnh phải tự phê bình  trước nhân dân.
Nhờ kịp thời sữa chữa sai lầm, rút kinh nghiệm và tự phê bình trước nhân dân thông qua hội nghị dân chủ ở các làng, nên tình hình ở An Giang sớm được ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi mặt công tác của  năm 1951 về sau.
2. Kịp thời chi viên cho các mặt trận Bình  trị thiên, trung Lào và Điện biên phủ.
Trong các năm 1950 - 1951,  1952 chiến trường Bình Trị Thiên bộ đội ta liên tiếp mở các chiến dịch quy mô cấp trung đoàn từng bước giành thế chủ động trong chiến tranh, giải phóng nhiều làng xã. Nhiệm vụ chi viện sức người sức của cho mặt trận Bình TrịThiên càng khẩn trương. Là một xã đông dân có tiềm lực kinh tế vào loại khá trong huyện Nghi Xuân, nên An Giang được giao chỉ tiêu tuyển quân, đi dân công hoả tuyến và thanh niên xung phong mỗi năm một nhiều. Riêng năm 1952 An Giang đã hoàn thành các chỉ tiêu: Tân binh 2 khoá: 48 người trong đó có 7 đảng viên, 39 đoàn viên và dân quân. Dân công  1 đại đội đầu năm 102 người và 1 trung đội cuối năm 46 người.
Chiến dịch Trung Lào cuối 1953 là đợt huy động dân công hoả tuyến cao nhất trong thời kỳ kháng chiến: Xã An Giang huy động 2 đại đội gồm 217 người phục vụ trong 6 tháng. Đây cũng là năm tuyển thanh niên xung phong có số lượng cao nhất, toàn xã 25 người.
Tết Âm Lịch 1954 chiến dịch Trung Lào  vừa chấm dứt An Giang cũng như cả tỉnh Hà Tĩnh lại phải gồng mình chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngoài việc huy động 1 B dân công hoả tuyến 46 người, nhân dân còn tự nguyện cho chính phủ vay thuế nông nghiệp khi lúa tháng 5 mới cấy xong, xã An Giang tuy dự trữ trong dân còn ít ỏi song bà con nông dân kẻ ít  người nhiều  đã vét bồ thổ thúng kịp thời gửi ra chiến trường 7 tấn thóc.
Tổng hợp trong thời gian từ 1950 - tháng 7/1954 các làng thuộc xã Xuân An ngày nay đã có: 88 đi bộ đội tăng gần gấp 2 lần thời kỳ 1945 - 1949.
Điều đặc biệt trong những năm kháng chiến chống Pháp từ 1949 đến 1953 thanh niên giáo xứ Gia hoà ( xã An Lạc cũ) có12 người gia nhập quân đội, tất cả đều hoàn thành  nhiệm vụ, kháng chiến chống Pháp vào loại nhiều nhất cả huyện Nghi Xuân và tĩnh Hà Tĩnh.
IV. SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG, THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HẬU PHƯƠNG.
1. Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương.
Từ năm 1950 về sau nhiệm vụ bảo vệ an toàn vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng với các chiến trường Bắc Đông Dương.
An Giang là một xã có nhiều giáo dân lại ở vào một vị trí đầu mối giao thông thuỷ bộ của Nghi Xuân , địa đầu phía Bắc Hà Tĩnh, giáp với  thị xã Vinh Nghệ An  nên địch thường xuyên có nhiều thủ đoạn phá hoại.
Liên tiếp trong các năm 1951 - 1953 máy bay Pháp thường xuyên trinh sát, khống chế đường quốc  lộ  số I và đường thuỷ trên sông lam. Chúng đã 5 lần đánh vào địa bàn An Giang, gây một số thiệt hại người và của.
Vì vậy bên cạnh công tác phòng gian, giữ gìn bí mật, chống gián điệp biệt kích xâm nhập vào xã để móc nối  xây dựng các tổ chức phản động, công tác phòng tránh  máy bay đánh phá được chi bộ và chính quyền xã triển khai tích cực. Hầm trú ẩn, hào giao thông được phát triển rộng khắp. Trường học và chợ được sơ tán vào vị trí an toàn, có hầm hào phòng tránh. Tổ "ngụ gia liên báo" được củng cố.
Việc xây dựng củng cố dân quân du kích từ đầu 1950 theo chủ trương của cấp trên, An giang thực hiện việc xây dựng củng cố dân quân du kích trên cơ sở nông hội . Trung đội du kích bán tập trung ở xã, các thôn trong xã tổ chức 1 đại đội hỗn hợp dân quân du kích (trong đó có 1 trung đội du kích).
Việc hoà dân quân du kích vào nông hội có tác dụng tích cực là phát triển nhanh số lượng, khắc phục được việc huy động nhân lực ra tiền tuyến ngày càng nhiều, nhưng dân quân du  kích lúc nào cũng có tỷ lệ từ 10 - 12% so với dân số trong xã. Song lại không đảm bảo chất lượng, vi phạm nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang vì nông hội và dân quân du kích  có chức năng khác nhau.
Lợi dụng những thiếu sót, sai lầm trong việc thực hiện tổng động viên năm 1950 và thi hành luật thuế nông nghiệp từ 1951 bọn phản động trong thiên chúa giáo ở xứ đạo Gia hoà trong tổ chức " liên tôn chống cộng" đã ráo riết hoạt động, phá rối trật tự trị an, chống phá chính quyền.
Chúng gieo rắc  các luận điệu phản tuyên truyền, đã kích vào các chính sách, đường lối  của đảng và chính phủ. Ngoài việc phát tán báo" Dân Tiến" một tờ báo phản cách mạng, chúng còn phổ biến những bài thơ đã kích thuế thích nông nghiệp, nói xấu việc phát động thi đua sản xuất, tòng quân nhập ngũ.
Trong giáo xứ Gia Hoà một số tên phản động đứng ra  tổ chức  đội "mõ chạc" tập hợp một số thanh niên giáo dân trang bị mõ tre để làm ký tín hiệu liên lạc, chạc mũi để bắt trói  cán bộ, chúng lôi kéo những người lạc hậu dây dưa đóng thuế nông nghiệp, xúi dục trai tráng trốn tránh đi dân công hoả tuyến Trắng trợn hơn chúng rào làng, ngăn cản cán bộ, dân quân đi lại, tuần tra, kích động gây xích mích mất đoàn kết giáo lương. Chúng còn vạch kế hoạch bắt giết cán bộ xã. Những thủ đoạn của bọn phản động làm rối ren, căng thẳng tình hình không chỉ trong giáo dân mà còn ảnh hưởng nhân dân.
Được sự chỉ đạo của huyện uỷ, trực tiếp là Ban tôn giáo vận chi uỷ, chính quyền, xã đội, công an, mặt trận ở An giang đã phát động nhân dân, xây dựng cốt cán, kiên quyết vạch mặt bọn đầu rõ, giác ngộ những người lầm đường, bắt và xử tù, đem đi cải tạo một số tên đầu sõ ngoan cố, cuối 1952 đầu 1953 nhờ đó ổn định được tình hình từ giữa năm 1953. (1)
2. Thực hiện chính sách hậu phương quân đội.
Chăm lo làm tốt công tác hậu phương quân đội là nghĩa vụ thiêng liêng đối với những người hy sinh  xương máu và đang trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận. Vì vậy ngay từ đầu năm 1946 xã An Lạc, tổ chức " Hội giúp đỡ binh sỹ bị thương"  về sau là Ban thương binh liệt sỹ, chuyên trách công tác hậu phương quân đội.
 
(1) Những tên phản động đầu sõ ở Gia Hoà là: Bạch Hồng Nghi, Nguyễn Đình Đào, Nguyễn Lược, Bạch Chức. 
Ngoài việc thương xuyên thăm hỏi, giúp sữa chữa nhà cửa, giúp cày cấy, gặt hái, thăm hỏi lúc ốm đau, tết nhất, các gia đình bộ đội, thương binh và gia đình liệt sỹ ở An giang trong quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng ở nông thôn còn được ưu ái như:
 Cấp thêm  ruộng công điền, công thổ.
- Ưu tiên chia quả thực trong giảm tô.
- Ưu tiên  vay nợ ngân hàng và quỹ xã dân tín dụng.
Không chỉ riêng gia đình bộ đội, liệt sỹ, thương binh mà gia đình anh chị em đi dân công  hoả tuyến và thanh niên xung phong cùng được nhân dân, các đoàn thể, nhất là chị em phụ nữ tận tình cưu mang, giúp đỡ.
Hội mẹ chiến sỹ An giang với hơn 200 hội viên đã hoạt động thường xuyên, các mẹ không chỉ hết lòng giúp đỡ bộ đội đóng quân trong xã, hay hành quân qua làng, nấu nước chè xanh, nải chuối quả bầu, bó rau góp lại ủng hộ dân quân luyện tập. Tuy tuổi già sức yếu các mẹ còn cử đại biểu đi xa 35 km lên tận làng Trường lưu thăm hỏi con em bộ đội xã nhà điều trị ở bệnh viện Lam Kiều ( Can Lộc).
Năm 1953 và cuối 1954, đầu 1955 An giang đã đón tiếp 15 thương binh quê Bình Trị Thiên về làng nuôi dưỡng, hỏi vợ xây dựng gia đình tạo mọi điều kiện để sớm ổn định đời sống.
II. PHÁT ĐỘNG QUẦN CHÚNG THỰC HIỆN TRIỆTĐỂ GIẢM TÔ.
Tiếp theo sắc lệnh về giảm tô 25% ngày 14/7/1949, tháng 5/1950 chính phủ ban hành sắc lệnh ấn định giảm tức và xoá giảm nợ cũ, tiếp đến chủ trương quản lý ruộng đất công, tạm cấp ruộng đất vắng chủ cho hộ nông dân thiếu ruộng vào cuối 1950, đầu 1951.
An giang đã thực hiện ngày càng tốt các chính sách của Đảng và chính phủ nhằm bồi dưỡng sức dân, tăng cường tiềm lực cho hậu phương. Nhờ đó đến 1953 trước khi thực hiện giảm tô bình quân hộ cố nông đã có 1 sào ruộng đất và hộ bần nông có gần 3 sào.
Thực hiện Luật ruộng đất, đầu 1954 với các xã trong huyện xã An giang thực hiện cuộc phát động quần chúng triệt để giảm tô nhằm đưa lại quyền lợi thiếtt thân cho nông dân nghèo và bước đầu hạ uy thế chính trị hạn chế bóc lột của giai cấp địa chủ.
Được sự chỉ đạo trực tiếp của đội giảm tô do Đoàn uỷ giảm tô Liên khu 4 phái về trực tiếp chỉ đạo mọi mặt ở trong xã.
Sau 4 tháng triển khai dồn dập các bước công tác: bắt rễ, xâu chuỗi, phát động quần chúng ôn nghèo, kể khổ, phân định thành phần giai cấp, tổ chức đấu tố địa chủ cường hào gian ác, lập toà án nhân dân xét xử những tên có nhiều nợ máu, tội ác phản cách mạng tịch thu ruộng đất của những địa chủ cướp đoạt ruộng đất công, ruộng đất của nông dân, trưng mua, trưng mua ruộng đất, trâu bò của địa chủ. Tổ chức phân phối quả thực cho cố nông, bần nông và cuối cùng là củng cố đảng, chính quyền, các đoàn thể. Đến cuối tháng 5/1954 kết thúc phát động quần chúng giảm tô cũng là thời gian chia xã. Xã An Giang được chia làm 2 xã là Xuân An và Xuân Giang.
Xã Xuân An gồm xã An Lạc cũ và làng Khải Mông của xã Giang Nam cũ.
Thành quả lớn nhất của phát động giảm tô là bước đầu hạ uy thế chính trị của giai cấp địa chủ phong kiến, đánh đổ và trừng trị bọn địa chủ cường hào gian ác, phản cách mạng, đưa địa vị nông dân lao động trở thành chủ nhân của làng xóm.
Về mặt xây dựng đảng bước đầu thanh lọc những phần tử bóc lột, thoái hoá, biến chất ra khỏi hàng ngũ, phát triển đảng viên mới, đào tạo cốt cán, nâng cao giác ngộ giai cấp cho đảng viên.
Về thành quả kinh tế tuy chưa lớn song đã chia số quả thực cho anh chị em bần cố nông như nhả ở, trâu bò, ruộng đất, nông cụ, đồ dùng.
Sau giảm tô bình quân một hộ bần nông tăng 1 sào 3 thước, cố nông tăng 2 sào 10 thước ruộng đất so với trước đó.
Tuy nhiên công tác phát động giảm tô nói chung và ở An Giang nói riêng có những thiếu sót như:
- Đội công tác khi về xã có tính chất độc lập ít chi uỷ, chính quyền và mặt trận, đoàn thể để triển khai mọi bước công tác dựa vào rễ chuỗi là chủ yếu.
- Việc kết nạp đảng viên, đề bạt cán bộ vì chưa dựa vào chi bộ và quần chúng mà  đợi quyết định nên thiếu khách quan.
Những thiếu sót trên đã được rút kinh nghiệm và khắc phục một bước.
VI. NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHÍNH TRỊ VÀ LẬP TRƯỜNG GIAI CẤP TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG.
Sau đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ 2 ( 2/1951) việc đổi tên đảng thành Đảng lao động Việt Nam và công khai hoạt động đã tạo niềm tin, phấn khởi trong toàn đảng, toàn dân.
Từ 1951 - 1954 là thời kỳ đảng ta tăng cường công tác học tập lý luận, nâng cao trình độ chính trị từng bước vận dụng đường lối giai cấp trong xây dựng Đảng, đào tạo đề bạt cán bộ. Đây là bước chuyển biến mới về chất lượng trong xây dựng đảng.
Qua các đợt chỉnh huấn, học tập chính cương điều lệ đảng, thực hiện phê bình và tự phê bình trong các chi bộ, tổ đảng đã tạo nên sự nhất trí về chính trị, nâng cao về nhận thức lý luận, đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, trang bị bước đầu về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin cho cán bộ, đảng viên.
Thông qua các cuộc vận động lớn như tổng động viên (1950) thuế nông nghiệp (1951), đại vận động sản xuất tiết kiệm ( 1952)vv... đội ngũ cán bộ trong UBKCHC, mặt trận, các đoàn thể quần chúng được rèn luyện, thử thách và trưởng thành.
Tháng 3/1950 việc hợp nhất mặt trận Việt Minh và Liên Việt được tiến hành kết quả nhanh gọn, đồng chí Nguyễn Liệu được phân công làm chủ tịch Mặt trận Liên Việt xã An Giang.
Các đoàn thể quần chúng trải qua thực hiện các nhiệm vụ nặng nề, phức tạp và khẩn trương trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã có bước trưởng thành về chất, có thêm kinh nghiệm về tập hợp lực lượng, hoạt động linh hoạt để thực hiện các chính sách mới của đảng. Nổi bật nhất trong những năm 1950 - 1954 là vai trò của hội nông dân, đảm đương là tổ chức quần chúng trung gian để thương lượng, điều hoà lợi ích giữa người nghèo với người giàu trong việc thực hiện giảm tô 25%, giảm tức, xoá và hoãn nợ. Qua phát động quần chúng triệt để giảm tô đầu 1954 tổ chức nông hội được sàng lọc, đưa phú nông ra khỏi tổ chức, loại tất cả số địa chủ làm thuần khiết lực lượng. Nông hội từ đây chỉ còn bần cố nông và trung nông, trong đó bần cố nông giữ  vị trí lãnh đạo, chủ trì trong ban chấp hành các cấp.
Đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể được sàng lọc qua từng bước thực hiện chính sách mới của đảng. Tính chất giai cấp trong cơ cấu đội ngũ cán bộ ngày được thực hiện rõ nét hơn, nhất là sau giảm tô, việc thực hiện nguyên tắc về đường lối giai cấp ở nông thôn là: Dựa hẵn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú nông, đấu tranhh với giai cấp địa chỉ phong kiến được thực hiện ngày càng triệt để.
Trong nội bộ đảng và tổ chức đoàn thể An giang từ 1950 đến 5/1954 đã diễn ra cuộc đấu tranh về quan điểm lập trường giai cấp, chống hữu khuynh và các biểu hiện cá nhân ngày một sâu sắc, biểu hiện gay gắt trong việc thu thuế nông nghiệp.
Tuy nhiên những bệnh quan liêu, hẹp hòi, tả khuynh và thành phần giai cấp chủ nghĩa đã dẫn đến những sai lầm khuyết điểm, hạn chế đến kết quả công tác, tạo ra những sở hở thiếu sót để bọn phản động lợi dụng, đã kích lôi kéo những người lạc hậu  đối lập với chính quyền và đảng. Trong công tác tôn giáo vẫn chưa chủ động, kịp thời ngăn chặn từ đầu những hoạt động chống phá đường lối, chính sách của những tên lợi dụng tín ngưỡng, giáo lý để hoạt động phản cách mạng kéo dài trong những năm kháng chiến chống Pháp làm mất ổn định chính trị trong những năm 1952, 1953.
Tháng 9/1945 - 7/1954 những năm tháng hào hùng của công cuộc chuẩn bị mọi mặt để kháng chiến và dốc sức người sức của cho tiền tuyến, ra sức xây dựng quê hương ngày càng lớn mạnh, từng bước thực hiện nhiệm vụ phản phong, đem quyền lợi thiết thực cho nông dân nghèo, bước đầu phát triển văn hoá giáo dục, xây dựng đời sống mới, tập dượt nông dân hình thức làm ăn tập thể qua đổi công, vần công.
Qua thực tiễn đấu tranh trực diện với quân thù ở ngoài tiền tuyến và chống phong kiến ở hậu phương những người cộng sản trên đất Xuân An ngày càng được tôi luyện và trưởng thành, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo nhân dân lập nên nhiều sự tích toàn diện trong những năm kháng chiến chống  Pháp.
Phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn của ông cha, trong cuộc kháng chiến chống Pháp với phương châm toàn dân, toàn diện, trường kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc nhân dân Xuân An đã khắc phục mọi khó khăn, lập nhiều thành tích  toàn diện, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đánh thắng thực dân Pháp và bè lũ tay sai giữ vững nền độc lập của dân tộc.
Trải qua nhiều lần hợp, tách, giải thể và tái lập về địa giới hành chính, quy mô xã và các biến động về tổ chức cơ cấu cán bộ cấp uỷ, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể trong điều kiện vừa phục vụ chiến đấu, vừa sẵn sàng chiến đấu và xây dựng bảo vệ quê hương phong trào cách mạng của các tầng lớp nhân dân Xuân An đã vượt qua mọi biến động, không ngừng phát triển góp phần xứng đáng vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Nhân dân Xuân An từ tháng 9/1945 đến tháng 7/1954 đã gửi ra chiến trường 133 con em tham gia quân đội trong đó có 12 thanh niên giáo dân. Trải qua chiến đấu có 15 người đã hy sinh trên các chiến trường. Xuân An còn cử ra tiền tuyến 312 lượt người đi dân công hoả tuyến và 15 thanh niên xung phong.
Nhiệm vụ đóng góp tiền của cho công cuộc kháng chiến nhân dân Xuân An đều hoàn thành. Riêng thuế nông nghiệp từ 1951 đến 1954 hàng năm đều hoàn thành chỉ tiêu 32 tấn đạt xấp xỉ 30% tổng thu nhập về lúa của nhân dân.
Có thể nói những năm tháng kháng chiến chống Pháp gian lao mà anh dũng Xuân An đã thực hiện trọn vẹn quyết tâm " Thóc không thiếu cân, quân không thiếu người".

CHƯƠNG IV.
ĐẢNG BỘ XUÂN AN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐỒNG THỜI 
THỰC HIỆN THẮNG LỢI HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC: 
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC THỐNG NHẤT TỔ QUỐC ( 7/1954 - 4/1975)
–––––––––––––––

Sau hiệp định Giơnevơ ( 20/7/1954) miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng hoà bình được độc lập lại trên ba nước Đông Dương. Trong niềm vui chung của cả nước trước thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; Đảng bộ và nhân dân Xuân An có niềm vui riêng là sau gần 5 năm hợp xã với Giang Nam thành xã lớn An Giang ( 1949 - 1954), nay được tách ra lập xã mới lấy tên là xã Xuân An gồm 4 làng là: Thượng Thôn, Trung Lộc, Gia Hoà và Khải Mông .
Hai tiếng Xuân An - tên gọi của xã mới, gieo vào lòng người niềm hy vọng an bình, phồn vinh.
Từ đây, Đảng bộ và nhân dân Xuân An cùng đồng bào, chiến sỹ miền Bắc  bước sang một thời kỳ cách mạng  mới vừa có hoà bình vưa có chiến tranh vừa cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống Mỹ cứu nước thống nhất tổ quốc làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Đây cũng là những năm tháng đầy cam go, thử thách chưa từng có tiền tệ trong lịch sử ở nước ta.
A. HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC, DÂN CHỦ, KHÔI PHỤC PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ( 7/1954 - 3/1965)
I. CHỐNG CƯỠNG ÉP ĐỒNG BÀO THEO ĐẠO THIÊN CHÚA DI CƯ VÀO MIỀN NAM. 
Với bản chất hiếu chiến, xảo quyệt, và dã tâm xâm lược nên đế quốc Mỹ, tên sen  đầm quốc tế ngay sau khi hiệp định Giơnevơ  vừa được ký chưa ráo mực chúng đã ngang nhiên trắng trợn phá hoại và ngăn cản việc thực hiện các điều khoản của hiệp định. Cùng với việc dựng lên tập đoàn tay sai mới là Ngô Đình Diệm ở miền Nam chúng ráo riết thực hiện nhiều thủ đoạn vô cùng thâm độc để phá hoại công cuộc khôi phục kinh tế, ổn định chính trị của nhân dân Miền Bắc mà thủ đoạn hàng đầu là cưỡng ép đồng bào theo đạo Thiên chúa di cư vào miền Nam. Thực hiện âm mưu này đế quốc Mỹ hòng bắn một mũi tên đạt hai mục tiêu là: Phá hoại miền Bắc vừa mới được giải phóng và xây dựng cơ sở chính trị cho chính quyền Ngô Đình Diệm đang bị đồng bào miền Nam lên án và các giáo phái, các thế lực thân Pháp chống đối quyết liệt.
Được cục tình báo C.I.A của Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm ở miền Nam trực tiếp vạch kế hoạch, cấp tiền bạc, bọn phản động trong đạo Thiên chúa và địa chủ cường hào ở Gia Hoà ráo riết dụ dỗ  và cưỡng ép bà con giáo dân Xuân An di cư vào miền Nam. Chúng tung ra những  luận điều nham hiểm nhằm mê hoặc lung lạc giáo dân như: " Chúa đã vào Nam, Cộng sản sẽ không cho đạo Thiên chúa hoạt động. Mỹ sẽ ném bom nguyên tử miền Bắc  và hứa hẹn rằng vào Miền Nam  sẽ được chính phủ Ngô Đình Diệm  ưu ái cấp ruộng đất, trâu bò, nhà cửa để làm ăn, yên lành thờ chúa!".
Chúng còn trắng trợn thúc ép một số người nhẹ dạ, cả tin viết đơn xin chính quyền xã  vào Nam, viết thư tố cáo lên uỷ ban quốc tế đóng ở Vinh ( Nghệ An) vu cáo uỷ ban hành chính xã ngăn cản nhân dân không được vào Nam. Những hành động của chúng đã tạo nên tình hình vô cùng rối ren  trong các xóm đạo. Bà con giáo dân bỏ sản xuất, bán nhà cửa, trâu bò, một bộ phận tay chân của bọn phản động còn gây rối trị an, tụ tập chè chén, kích động những người lạc hậu kéo lên trụ sở xã nêu yêu sách. Cá biệt tên thị Tám con gái chánh Lược ở Gia Hoà khi xe của Uỷ ban Quốc tế về xã xem xét  tình hình y đã lao ra đường tỉnh lộ Gia Lách đi Hội Thống  để chặn xe…nhưng anh em công an và dân quân đã kịp thời kéo y ra khỏi mặt đường.
Do hoàn cảnh sau hoà bình, cùng mộc lúc Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Xuân An phải tập trung mọi cố gắng cao nhất để giải quyết nhiều công việc cấp bách trước mắt như: Khôi phục sản xuất, chống đói, đón tiếp đồng bào cán bộ chiến sỹ miền Nam tập kết ra miền Bắc , sắp xếp ổn định đội ngũ cán bộ sau khi lập xã mới nên lúc đầu lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền chưa thực sự tập trung để đập tan âm mưu cưỡng ép bà con giáo dân trong xã di cư vào miền Nam.
Trước diễn biến tình hình ở trong các xóm có đông nhân dân theo đạo Thiên chúa hầu hết đang rục rịch chuẩn bị để ra Hải Phòng di cư vào miền Nam, được Ban tôn giáo vận tỉnh cử cán bộ về giúp đỡ, chỉ đạo địa phương, tình hình ở Xuân An chuyển biến ngày càng tích cực.
Ban chỉ đạo chống cưỡng ép giáo dân di cư vào miền Nam của xã được tăng cường cán bộ của huyện, tỉnh, của ngành công an, tôn giáo vận và bộ đội trung đoàn 271 quân khu 4 đã triển khai nhanh chóng, cùng một lúc nhiều biện pháp công tác như:
- Thực hiện " ba cùng" với nhân dân, xây dựng cốt cán, kiên trì giáo dục, thuyết phục, từng bước giúp cho bà con giáo dân  nhận rõ âm mưu thâm độc, quỹ quyệt của Mỹ Diệm, làm cho mọi người phân biệt đúng, sai.
- Phát động quần chúng tố giác những tên phản động đầu sõ ở địa phương, để thẳng tay trừng trị và đi sát những người nhẹ dạ, cả tin bị bọn đầu sõ mua chuộc đã có những việc làm sai trái nhận ra lẽ phải, ăn năn hối lỗi, làm cho bọn đầu sõ bị cô lập, bị tố cáo, lật tẩy bộ mặt phản cách mạng của chúng trước nhân dân.
- Có biện pháp đối phó với tổ công tác của UB quốc tế ở Vinh về xã thị sát tình hình làm cho họ thấy được chính sách sáng ngời của đảng chính phủ và Hồ Chủ tịch, cũng như việc làm của lãnh đạo địa phương luôn luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng của bà con theo đạo Thiên chúa, đồng thời vận động tổ chức những người nhận ra lẽ phải đứng lên tố cáo bọn phản động ở địa phương đã gây ra tình hình bất ổn trong xã, làm cho cuộc sống của bà con theo đạo bị đảo lộn.
- Tổ chức dân quân du kích và công an làm tốt công tác trật tự trị an, phối hợp cùng lực lượng bộ đội có kế hoạch vừa bảo vệ an toàn tài sản bà con giáo dân vừa kiên quyết, kịp thời ngăn chặn các hành vi trộm cắp, gây rối trong địa bàn.
- Với các biện pháp tổng hợp trên tình hình ở xứ đạo Gia hoà đã sớm tạo ra được chuyển biên tích cực. Một số giáo dân trở thành cốt cán, góp phần đáng kể trong việc vận động bà con theo đạo nhận ra âm mư Mỹ Diệm, tố cáo vạch trần bộ mặt phản động của bọn đầu sõ, tiêu biểu cho đội ngũ cốt cán ấy là các ông Minh, ông Tạnh, ông Kiểu, ông Khẩn, ông Đoan …ở Gia Hoà, Xuân Hòa. Bọn phản động, đầu sõ bị nhân dân tố giác, chính quyền đưa ra trước nhân dân để giáo dục đã phải cúi đầu nhận tội trước pháp luật.
Sau 6 tháng đấu tranh căng thẳng và cô cùng phức tạp, công tác chống cưỡng ép, bà con theo đạo thiên chúa ở Xuân An đến đầu năm 1955 đã giành được thắng lợi, hơn 50% số khẩu và số hộ trong bà con giáo dân đã tự nguyện xin rút đơn di cư vào miền Nam để ở lại quê hương cùng bà con bên lương xây dựng cuộc sống yên lành tốt đời đẹp đạo.
Tuy vậy trong xã Xuân An đã có tới 106 hộ gồm 446 nhân khẩu theo đạo Thiên chúa đã di cư vào miền Nam chiếm tỷ lệ trên 40% trong giáo dân ở xứ đạo Gia Hoà.
Thắng lợi của công tác chống cưỡng ép bà con giáo dân di cư vào miền Nam có ý nghĩa chính trị, kinh tế và xã hội sâu sắc. Qua cuộc đấu tranh trực diện với bọn phản động tay sai của Mỹ Diệm đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở Xuân An đã thu được những kinh nghiệm rất quý báu trong công tác tôn giáo vận rút được bài học có tính thời sự, có ý nghĩa lâu dài là: Muốn làm tốt công tác vận động, tập  hợp được bà con giáo dân trước hết phải quán triệt và  nghiêm chỉnh thực hiện tốt chính sách tự do tín ngưỡng của đảng và Chính phủ, nắm vững pháp luật, cô lập bọn đầu sõ lợi dụng tôn giáo  để hoạt động phản cách mạng, hết sức chân tình, thông cảm và đoàn kết gắn bó với bà con giáo dân, kịp thời cách ly bọn đầu sõ với nhân dân và cương quyết  trừng trị  theo đúng pháp luật và phải giáo dục, động viên nhân dân đứng ra tố cáo bọn đầu sõ phản động. Trên cơ sở đó khi chính quyền xử lý, trừng trị chúng bằng pháp luật thì nhân dân sẽ đồng tình, ủng hộ.
II. ĐÓN TIẾP ĐỒNG BÀO VÀ BỘ ĐỘI MIỀN NAM TẬP KẾT RA BẮC.
Thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ Tịch: " Đồng bào Miền Nam  tập kết ra Bác là do điều kiện, hoàn cảnh phải xa quê hương nên đồng bào miền Bắc phải đoàn kết chặt chẽ với đồng bào miền Nam"… tháng 10/1954 Đảng bộ và nhân dân Xuân An cùng với các xã bạn trong huyện đã làm tốt công tác đón tiếp 5000 đồng bào miền Nam tập kết ra miền Bắc nhằm thực hiện các điều khoản trong hiệp định Giơnevơ.
Với tấm lòng " Người trong một nước phải thương nhau cùng" đảng bộ và nhân dân Xuân An được huyện giao tổ chức trạm đón tiếp khách ở Gia Lách để tiếp nhận số bà con Quảng Trị, Thừa thiên Huế tập kết ra miền Bắc theo tuyến đường bộ bằng ô tô.
Nhờ được nhân dân toàn xã đồng tình và tự giác tham gia nên những ngày đón tiếp  diễn ra như ngày hội, cả xã trống dông, cờ mở, cổng chào cho đến nơi ăn, chốn nghĩ tạm đều được chu tất, sạch sẽ, ai cũng niềm nở, tay bắt mặt mừng. Bà con miền Nam ra tập kết trên miền Bắc  khi đi qua và nghỉ lại ở Xuân An đều có cảm tưởng là được trở về quê nhà sau những ngày đi xa.
Nhân dân Xuân An đã được tiếp đón 20 hộ đồng bào miền Nam tập kết định cư lâu dài ở lại.
Với tình cảm " Nam, Bắc ruột thịt, cả nước một nhà" đảng bộ và nhân dân Xuân An đã hết lòng yêu thương, đùm bọc, tận tình giúp đỡ, đoàn kết với bà con  miền Nam tập kết. Họ được cấp đất ở, cấp ruộng cày  cấy, giúp làm nhà và giúp từ nuộc lạt, chiếc nồi đến công cụ sản xuất… Nhờ vậy mà ai cùng sớm ổn định cuộc sống và chia ngọt sẽ bùi, chung lưng đấu cật với nhân dân Xuân An, nhiều người được tin cậy, trở thành cốt cán ở địa phương. Hầu hết con cháu các gia đình Trị Thiên tập kết ở Xuân An đã thành đạt, có vợ con, gia đình hạnh phúc và tham gia mọi mặt công tác ở quê mới, có đồng chí trở thành người Bí thư Chi bộ mẫu mực ( đ/c Am)…
Đã hơn nửa thế ký trôi qua nhưng nghĩa tình mặn nồng của nhân dân và Đảng bộ Xuân An còn in đậm trong tâm khảm của con cháu các gia đình đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc định cư lâu năm trên đất  Xuân An trong những năm tháng hào hùng 1955 - 1975.
III. HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ SỬA SAI CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, CHỈNH ĐỐN TỔ CHỨC.
Cùng đồng thời  với các xã trong huyện Nghi Xuân từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1955 Xuân An đã hoàn thành cải cách ruộng đất thực hiện triệt để khẩu hiệu " Người cày có ruộng" Đảng đã phát động nông dân vùng lên " có khổ nói khổ" đập tan uy thế chính trị và quyền lực kinh tế của giai cấp địa chủ, xoá bỏ tận gốc  chế độ bóc lột phong kiến ở nông thôn tồn tại hàng trăm năm.
Cải cách ruộng đất là một cuộc phát động quần chúng nông dân rầm rộ với khí thế đấu tranh không khoan nhượng với bọn địa chủ, cường hào ở nông thôn diễn ra sục sôi chưa từng có trong lịch sử của dân tộc.
Cũng như các địa phương  khác ở miền Bắc, công tác triển khai, tổ chức thực hiện cải cách ruộng đất ở Xuân An đặt dưới sự lãnh đạo của uỷ ban cải cách ruộng đất liên khu 4, sự chỉ đạo của đoàn uỷ cải cách ruộng đất và trực tiếp tổ chức thực hiện là đội cải cách ruộng đất do đoàn uỷ phái về, còn các cấp uỷ đảng và chính quyền ở địa phương từ xã lên huyện và tỉnh  đều bị đặt ra ngoài cuộc.
Sau 4 tháng đội cải cách ruộng đất về xã tổ chức thực hiện các bước công tác: “Bắt rễ, xâu chuỗi” những người nghèo khổ nhất ở các thôn xóm để bồi dưỡng thành cốt cán. Trên cơ sở có đội ngũ rễ, chuỗi ấy làm cốt cán cho phát động nông dân lao động thực hiện việc " Có khổ, nói khổ" tố cáo các tội ác của giai cấp địa chủ và bọn cường hào, tiếp đến họp đại hội nông dân lao động quy thành phần giai cấp ở nông thôn bao gồm, các loại: Cố nông, bần nông, trung nông lớp dưới, trung nông khá, phú nông, địa chủ ( bao gồm địa chủ thường, địa chủ kháng chiến, địa chủ cường hào) và tổ chức  đấu tố, lập toà án nhân dân đặc biệt ở xã để xét xử những địa chủ cường hào đầu sõ bị quy kết là có nhiều nợ máu, nhiều tội ác với nông dân. Toà án nhân dân đặc biệt có quyền lực tối thượng  xét xử tử hình và thực hiện bản án ngay sau khi tuyên án. Sau đó thực hiện việc tịch thu trưng thu tài sản  của địa chủ bao gồm ruộng đất, nhà cửa, trâu bò, nông cụ và mọi thứ  đồ dùng, tiền bạc, trưng mua một phần tài sản ruộng đất, trâu bò của địa chủ kháng chiến và của phú nông. Công việc cuối cùng là chia quả thực cho nông dân chủ yếu là ưu tiên cố nông và bần nông làm cho mỗi hộ trong bần cố nông đều có ruộng đất, trâu bò, nhà ở và đồ dùng, nông cụ đảm bảo cuộc sống.
Song song với các bước công tác của nhiệm vụ cải cách ruộng đất, đội cải cách ruộng đất còn thực hiện việc kết nạp đảng viên mới, lựa chọn và bố trí cán bộ, chỉ định cấp uỷ và chính quyền xã không thông qua bầu cử dân chủ. Đội còn phát động quần chúng tố cáo phản động trong đội ngũ cán bộ, đảng viên tiến hành xử lý các hình thức kỷ luật trong đảng kể cả bắt giam, xử tù đối với những người bị đội quy là phản động nguy hiểm  trong đảng ( Quốc dân  đảng đầu sõ ở địa phương). Công việc cuối cùng trước lúc đội cải cách rút khỏi xã và chỉnh đốn tổ chức, sắp xếp bộ máy cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể trong xã đội đã chỉ định 3 cán bộ chủ trì là:

Trần Thái làm Bí thư Chi bộ
Hà Thị Tính Chủ tịch xã
Trần Vịnh  làm xã đội trưởng

Thắng lợi cơ bản của cái cách ruộng đất là thực hiện triệt để nhiệm vụ phản phong, đánh đổ hoàn toàn uy thế chính trị và hình thức bóc lột kinh tế của giai cấp  địa chủ phong kiến đem lại ruộng đất cho dân cày, người nông dân lao động  thực sự là chủ nhân của đồng ruộng, xóm làng.
Ước mơ cháy bỏng  hàng ngàn năm của nông dân là " người cày có ruộng" đã được thực hiện.
Song do sự lãnh đạo chỉ đạo và tổ chức thực hiện từ uỷ ban cải cách ruộng đất ở Trung ương đến đội cải cách ruộng đất ở xã  có nhiều việc làm chủ quan, duy ý chí, tả khuynh, vận dụng rập khuôn  cách làm và kinh nghiệm của nước ngoài nên đã dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng như: Quy sai thành phần, đấu tố tràn lan, xử bắn và bắt giam oan sai, quy phản động quốc dân đảng tuỳ tiện vô căn cứ dẫn đến xử lý kỷ luật không đúng trong đảng và chính quyền. Kết nạp đảng viên và chỉnh đốn tổ chức vi phạm nguyên tắc tập trung, dân chủ, không đúng với điều lệ đảng.
Những sai lầm đó của cái cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức chậm được phát hiện và khắc phục đã tạo nên một tình hình mất ổn định chính trị ở nông thôn từ cuối 1955 đến cuối 1956.
Cũng như ở các xã trong huyện, tình hình Xuân An những tháng sau cải cách ruộng đất quả thật là rối ren, nặng nề, căng thẳng. Tình trạng từ trong đảng ra ngoài dân  phổ biến là thật giả lẫn lộn, đúng sai không ai phân biệt, nghi kỵ, thù oán chồng chất, oan sai không ai giải quyết, đúng như Hồ Chủ Tịch đã nói với các đại biểu Đảng viên 1930 - 1931 ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong ngày 08/9/1956 tại Hà Nội. " … “Hiện nay sự việc đã sai và sai to, có những quần chúng  và đảng viên đã chết oan uổng, đau đớn phải sửa sai, nhưng không được nóng vội mà phải đi  từng bước…".(1)
Dưới sự chủ trì của Hồ Chủ Tịch Hội nghị ban chấp hành trung ương đảng lần thứ 10 ( Khoá II) đã chủ trương "… “Kiên quyết sữa chữa sai lần trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức " (2)
Được sự chỉ đạo của tổ công tác của huyện uỷ Nghi Xuân ( có cán bộ tỉnh uỷ tăng cường) từ cuối tháng 11/1956 công tác sữa sai cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở Xuân An đã triển khai thực hiện theo đúng phương châm, phương pháp của hội nghị lần thứ 10 ( khoá 2) của Trung ương đảng.
" Trên trước, dưới sau, trong đảng trước, ngoài đảng sau, sửa sai chỉnh đốn tổ chức trước, sữa sai cải cách ruộng đất sau…trong sửa sai cải cách ruộng đất thì sửa sai thành phần trước, đền bù tài sản sau…" (3)
 
(1)+(2)+(3) Lịch sử Đnảg bộ Nghi Xuân trang 159; XB:2000
Sau 18 tháng vượt qua mọi khó khăn, phức tạp, đầu 1958 công tác sữa chữa sai lầm cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở Xuân An đã giành được thắng lợi cơ bản, cụ thể trên các nhiệm vụ chủ yếu là:
Được tỉnh uỷ phân cấp, thường vụ huyện uỷ Nghi Xuân chỉ đạo tháng 12/1956 đã ra quyết nghị về việc khôi phục lại đảng tịch, minh oan và xoá bỏ mọi hình thức kỷ luật, mọi kết luận oan sai cho 36 cán bộ đảng viên ở Xuân An trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức bị  xử trí sai, kết luận oan về lịch sử chính trị.
Giữa tháng 12/1956 đại hội Chi bộ Xuân An đã họp liên tục trong ba ngày để học tập nghị quyết trung ương lần thứ X ( khoá 2), Nghị quyết của tỉnh uỷ và huyện uỷ về phương châm, phương pháp, kế hoạch sửa sai cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Đại hội đã dân chủ bầu ra ban chỉ uỷ mới gồm 3 đồng chí:

Ngyễn Liệu:          Bí thư Chi bộ
Nguyễn Văn:        Phó Bí thư Chi bộ
Phạm Xuân Diện  Chi uỷ viên ( nhà sư chùa Ranh hoàn tục)

Sau đó, chi uỷ mới đã kiện toàn lại uỷ ban hành chính xã, cử đồng chí Nguyễn Văn làm Chủ tịch và củng cố lại Mặt trận, các đoàn thể, đồng chí Phạm Xuân Diện được phân công làm Chủ tịch MTTQ, phụ trách khối đoàn thể. Ban chấp hành thanh niên, phụ nữ, nông hội, ban chỉ huy xã đội, Công an xã đều được bổ sung đủ số lượng. Các đồng chí cán bộ cũ trước đây bị xử trí oan sai đều được tín nhiệm cử vào ban chấp hành các đoàn thể.
Bộ máy lãnh đạo và quản lý nhà nước mặt trận và các đoàn thể được kiện toàn nhanh, gọn, đủ số lượng, đảm bảo chất lượng  nên đã sớm ổn định và vận hành trôi chảy mọi mặt công tác ở địa phương. Đến cuối 1957 tình hình của bộ máy  cấp xã hoạt động đã đi vào nề nếp và có hiệu quả.
Song do sai lầm trong chỉnh đốn tổ chức quá nghiêm trọng nên tuy được sửa sai song về mặt tư tưởng, tâm tư tình cảm trong cán bộ, đảng viên vẫn còn mặc cảm lẫn nhau. Nội bộ đoàn kết chưa cao, tình trạng định kiến giữa cán bộ đảng viên bị xử lý oan sai với số cốt cán được kết nạp đảng  trong cải cách tuy diễn ra không gay gắt những âm ỷ, kéo dài về sau.
Một số đảng viên, cán bộ tuy được minh oan, song vẫn còn ấm ức, có người bất mãn, bỏ việc được giao, phát ngôn thiếu xây dựng, gây mất đoàn kết  nội bộ…Song nhìn chung bộ máy lãnh đạo ở Xuân An sau sửa sai đã đảm bảo đường lối  giai cấp của đảng  (2/3 là bần cố nông  và trung nông lớp dưới)
2. Sửa sai trong cải cách ruộng đất.
Sau khi cơ bản sửa sai chỉnh đốn tổ chức thắng lợi, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ và được sự giúp đỡ, chỉ đạo của tổ công tác, việc sữa sai cải cách ruộng đất được xúc tiến khẩn trương qua 2 bước.
- Sửa sai về phân định thành phần
- Điều chỉnh quả thực, đền bù tài sản cho các hộ bị quy sai.
Chi bộ đã triển khai tổ chức cho toàn dân trong xã theo đơn vị xóm, lấy nông hội làm nòng cốt tổ chức học tập và liên hệ cụ thể ở địa phương về những căn cứ để phân định thành phần giai cấp ở nông thôn.
Trên cơ sở đó  đem ra nhân dân bình xét từng trường hợp cụ thể mà trong cải cách  ruộng đất đã quy là địa chủ, phú nông, địa chủ cường hào gian ác. Qua bước bình nghị dân chủ trong nhân dân, tập thể chi uỷ xét duyệt và đưa ra hội nghị chi bộ cân nhắc sau đó mới hợp toàn dân để công bố.
Kết quả toàn xã chỉ còn lại 4 gia đình địa chủ và 5 hộ phú nông. Riêng trường hợp  ông Lê Oánh  ( Phó Oánh) trong cải cách ruộng đất  quy sai là địa chủ cường hào gian ác toà án  nhân dân đặc biệt  xử tử hình  nay cũng được minh oan là xử tội sai và hạ thành phần xuống trung nông khá.
Một số người trong cải cách ruộng đất chẵng những bị quy sai thành phần mà còn bị bắt đi cải tạo lao động, nay cũng sữa sai đề nghị cấp trên trả lại tự do.
Bước công tác sửa sai cuối cùng là điều chỉnh quả thực trong nội bộ nông dân lao động để có tài sản, nhà cửa, ruộng đất đền bù cho các hộ bị qui sai là địa chủ trong cải cách ruộng đất đã bị tịch thu, trưng mua đã chia quả thực cho bần cố nông và một bộ phận trung nông lớp dưới.
Trên cơ sở soát xét số liệu phải đền bù cho các hộ bị quy sai thành phần lập phương án điều chỉnh quả thực. Đây là bước rất phức tạp vì đụng chạm đến quyền lợi thiết thân của cả người bị điều chỉnh và người được đền bù. Vì vậy chỉ làm công tác tư tưởng chu đáo phải nói rõ, giải thích có tình có lý để mọi người nhận rõ chính sách sửa sai sáng ngời chủ nghĩa nhân đạo của đảng và chính phủ. Đồng thời phát động tình cảm giai cấp, nghĩa đồng bào để mọi đối tượng có sự nhân nhượng thấu tình đạt lý. Mặt khác về mặt tổ chức thực hiện chính quyền, mặt trận và các đoàn thể đã phát động đoàn viên, hội viên giúp đỡ thiết thực về công và vật liệu để sớm làm nhà cho các hộ bần cố nông phải trả nhà quả thực. Sau hơn 3 tháng tiến hành ráo riết và liên tục, đồng bộ các khâu rút  và đền bù, phát động nội bộ nông đã tương trợ đến cuối 1957 tình hình về đền bù  tài sản mới được giải quyết. Tuy nhiên trong quá trình sửa sai cũng không ít những vụ việc tranh chấp trong nội bộ nhân dân về tài sản đã xẩy ra, song nhờ kịp thời  dàn xếp  thoả đáng nên dần ổn định. Một số người, thậm chí là cán bộ, đảng viên bị quy sai cũng đòi hỏi quá đáng gây nên  phức tạp mới buộc phải xử lý kỷ luật.
Trong những ngày đảng bộ và nhân dân Xuân An đang tập trung để sửa sai chỉnh đốn tổ chức và cải cách ruộng đất thì ngày 15/6/1957 Hồ Chủ tịch sau 50 năm xa nhà nay trở về quê hương đã vào thăm Hà Tĩnh. Sự có mặt của Bác ở Thị xã và những lời huấn thị của Người trong buổi nói chuyện với hơn 2000 đại biểu quân dân chính đảng từ cấp xã trở lên là sự động viên to lớn, thiết thực đối với đảng bộ nhân dân Hà tĩnh nói chung và Xuân An nói riêng. Thực hiện lời Bác dặn: Đoàn kết tốt để sửa sai thắng lợi: Đảng bộ và nhân dân Xuân An đã làm theo lời căn dặn vàng ngọc ấy của Bác Hồ nên đã hoàn thành công tác sửa sai vào đầu 1958.
Sửa sai cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức là một công tác vận động quần chúng vô cùng phức tạp và đầy khó khăn, mang nhiều ý nghĩa: Kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc. Thắng lợi của công tác sữa sai đã để lại bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác vận động quần chúng, qua sửa sai đảng bộ Xuân An đã trưởng thành cả về tư tưởng, tổ chức, mối quan hệ máu thịt giữa dân với Đảng được củng cố, đội ngũ cốt cán ở địa phương được sàng lộc và được rèn luyện cả về lập trường giai cấp và năng lực công tác.
Sửa sai thắng lợi đã tạo tiền đề thuận lợi cho Đảng bộ và nhân dân Xuân An đẩy nhanh việc khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá và sôi nổi  tiến quân vào phong trào hợp tác hơn nông nghiệp từ 1959 về sau.
IV. KHÔI PHỤC KINH TẾ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ, ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN.
Sau ngày  hoà bình vừa được lập lại ( 20/7/1954) bước vào mùa mưa lũ, đê La Giang và Hội Thống bị vỡ gây nên lũ lụt nghiêm trọng. Trên địa bàn Xuân An hơn 98% lúa mùa bị ngập giữa lúc mới trổ xong  gần 70% số nhà dân nước vào, một số hộ bị trôi nhà và tài sản. Hậu quả mất mùa đã gây nên nạn đói cuối 1954 đầu 1955.
Ngoài việc tiếp nhận và phân phối gạo và thóc cứu đói của nhà nước được kịp thời và đúng đối tượng, đảng bộ và chính quyền Xuân An đã sớm phát động toàn dân  đẩy mạnh sản xuất rau, màu ngắn ngày để giêng hai có cái ăn chống đói. Nhờ đó  trong xã không xẩy ra người chết đói, tuy một số hộ phải rau, cháo qua ngày trong vụ giáp hạt đầu năm 1955.
Ngoài việc huy động dân công hơn 200 người bồi trúc đê Hội Thống và cống ngăn mặn ở Cương Gián, xã còn tổ chức lực lượng dân quân và thanh niên làm nòng cốt cho toàn dân sữa lại cầu cống,mương máng trên đồng ruộng  và trong các làng.
Cuối 1954 Xuân An đã góp hàng trăm ngày công cùng các xã bạn và ngành giao thông sửa đường quốc lộ 1 và tỉnh lộ bảo đảm thông xe an toàn.
Mùa hè 1955 trời nắng dài ngày, gây nên hạn rất nặng và kéo dài, bà con nông dân đã tổ chức đổi công để giúp nhau chống hạn cho lúa mùa và khoai gieo trỉa kịp thời vụ. Nhờ đó thu hoạch mùa màng tương đối.
Phong trào đổi công, hợp công trong nhân dân ở Xuân An phát triển mạnh vào những năm 1951 - 1953 và sau giảm tô  đầu 1954. Nhưng dừng lại trong cải cách ruộng đất. Cuối 1957  sau sửa sai đã được khôi phục, thu hút  hơn 70% số hộ .
Cùng với đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, chi bộ đảng đã quan tâm chăm lo công tác văn hoá, giáo dục.
Năm học 1956 - 1957 trường tiểu học đổi thành trường Cấp 1 theo hệ thống giáo dục  phổ thông 9 năm. Cấp I có 4 lớp gồm các lớp 1, 2, 3, 4  ( trước đây 5 lớp theo thứ tự; Năm, bốn, ba, nhì và nhất) từ đầu 1958 công tác chống tái mù chữ trong nhân dan, đặc biệt trong đảng và đoàn được tổ chức, Năm 1959 lớp bổ túc văn hoá cho cán bộ xã, xóm và các đoàn thể được tổ chức, giáo viên chuyên trách do huyện cử về một thầy giáo cấp I.
Năm 1957 được ngành y tế giúp, xã bắt đầu lập trạm y tế có 3 nhân viên trong đó có 1 y tá. Cuộc vận động ăn chín, uống sôi, ngủ màn, đào giếng trong vườn và làm hố xí được phát động đã góp phần đẩy lùi bệnh tật.
Từ năm 1958 các xóm đều tổ chức chòi thông tin do chi đoàn thanh niên phụ trách hàng ngày dùng loa  thủ công thông báo tin tức và chủ trương công tác của xã, xóm.
Cuối 1957 ngành ngân hàng tín dụng bắt đầu cho nông dân vay vốn để phát triển sản xuất, nhờ đó đàn trâu bò cày kéo và đàn lợn trong nhân dân tăng dần. Đời sống nhân dân cơ bản được ổn định.
V. HOÀN THÀNH HỢP TÁC HOÁ NÔNG NGHIỆP VÀ XÂY DỰNG BA NGỌN CỜ HỒNG Ở NÔNG THÔN.
Từ kinh nghiệm  xây dựng họp tác xã thí điểm Trường Mỹ (Xuân Mỹ) giữa năm 1958, tháng 4/1959 huyện uỷ Nghi Xuân ra nghị quyết phấn đấu cuối 1960 cơ bản hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp.
Thực hiện nghị quyết của huyện uỷ, tháng 5.1959 Xuân An chọn xóm An Lộc thí điểm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Xã chọn An Lộc vì là một xóm ổn định không tách nhập như  các xóm khác. Chỉ sau hơn một tháng học tập và tiến hành triển khai vận động hai chục hộ nông dân trong xóm đã tự nguyện viết đơn xin gia nhập hợp tác xã bậc thấp.
Học tập và thi đua với An Lộc, tháng 9/1959 xã mở chiến dịch xây dựng hợp tác xã nông nghiệp trong tất cả 9 xóm còn lại. Cuối 1959 lần lượt  các xóm: An Long, An Bình, An Sơn ( làng Thượng Thôn cũ) và xóm An Phong (làng Gia Hoà cũ) xóm Hồng Tiến ( làng Khải Mông cũ) đều thành lập xong các hợp tác xã bậc thấp. Trong các năm 1960, 1961 các xóm còn lại như Tân Tiến ( Khải Mông cũ)và An Phú, An Xuân, An Hợp ( Gia Hoà cũ lần lượt thành lập xong các hợp tác xã bậc thấp.
Đầu năm 1962 Xuân An đã hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp toàn xã có 10 xóm đã lập  được 10 hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, trong dó có những hợp tác xã công giáo toàn tòng là An Xuân và An Hợp. Tổng số hộ nông dân vào hợp tác xã khi mới thành lập  đạt tỷ lệ 74% ( Riêng giáo dân chỉ có: 32 hộ/161 hộ).
Phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Xuân An đã diễn ra khá sôi nổi trở thành cao trào  cách mạng của đông đảo nông dân lao động. Tuy nhiên do phát triển ồ ạt và chưa thực sự dựa trên sự tự nguyện, tự giác của người nông dân, vẫn còn  có sự thúc ép trong quá trình vận động. Vì vậy tính vững chắc  chưa cao, đó đây vẫn  có người sau một vài vụ sản xuất do nhiều lý do đã xin ra hợp tác. Tháng 4/1960 hợp tác xã An Xuân  8/15 hộ xin ra và tháng 6/1962 ở hợp tác xã An Hợp có 17 hộ xin ra.
Thực hiện chủ trương của huyện uỷ về việc mở rộng quy mô hợp tác xã và đưa  hợp tác xã từ bậc thấp lên bậc cao. Từ cuối năm  1961 đến đầu 1963 Xuân An đã hoàn thành chủ trương đó. Từ 10 hợp tác xã đã  hợp nhất  thành 6 hợp tác xã là:
- An Thượng: Do 3 họp tác xã An  Sơn, An Bình An Long hợp nhất lại
- Liên Phong: Gồm 2 hợp tác xã An Phong  và An Phú hợp lại
- An Hồng: Gồm Tân Tiến và Hồng Tiến
- An Lộc
- An Hợp
- An Xuân
Cùng với phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, các hợp tác xã mua bán và tín dụng ở Xuân An cũng lần lượt được thành lập. Phong trào xây dựng ba loại hình hợp tác xã  đã  tạo nên một cao trào cách mạng sôi động.
Sự ra đời của các loại hình họp tác với tên gọi " ba ngọn cờ hồng" của chủ nghĩa xã hội  thực sự đã làm biến đổi  khá sâu sắc trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội ở Xuân An từ sau ngày kết thúc công tác sửa sai cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.
Hợp tác xã tín dụng ra đời  cuối 1960 lúc đầu xã viên đóng góp 851 cổ phần được 9.068 đồng 5 hào. Về sau được ngân hàng huyện hỗ trợ thêm vốn nên đã phát huy tác dụng trong công tác cho xã viên vay với lãi suất hợp lý. Nhờ có vốn vay ấy nhiều hộ  nông dân nghèo đã có thêm tiền để múa sắm công cụ sản xuất, đồ dùng gia đình và phát triển chăn nuôi. Ban quản trị và ban kiểm soát của hợp tác xã tín dụng hoạt động có nề nếp, nhân dân đã tích cực gửi tiết kiệm làm tăng nguồn vốn cho hợp tác xã.
Đầu 1961 hợp tác xã mua bán cũng được tổ chức với vốn cổ phần của xã viên đóng góp bà 6500 đồng. Ngoài việc ban quản trị tích cực khai thác nguồn hàng trong huyện, trong tỉnh, hợp tác xã mua bán  còn được thương nghiệp huyệnuỷ thác bán nhiều mặt hàng  nhu yếu phẩm thiết yếu  để phục vụ đời sống  xã viên. Ngành lương thực  huyện cũng uỷ thác cho hợp tác xã mua bán thu mua lương thực trong nhân dân. Hoạt động của hợp tác xã mua bán nhờ đó ngày càng đa dạng gánh vác trọng trách người nội trợ  cho đời sống nhân dân. Cuối 1960 hợp tác xã ngư nghiệp đánh cá sông được tổ chức gồm 33 hộ có 225 khẩu, 92 lao động với vốn cổ phần bằng tài sản quy ra tiền: 15.700 đồng. Những hộ vạn chài trên Sông Lam được xã cấp đất ổn định lập ra xóm An tiến ( nay là khối 5).
VI. THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC 5  NĂM LẦN THỨ I (1961-1965)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần III của Đảng (9/1960) đề ra đường lối chiến lược trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam và nhiệm vụ cách mạng mỗi miền nhằm thực hiện thống nhất nước nhà và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
Cùng với quân và dân miền Bắc đảng bộ và nhân dân   Xuân An tiến quân mạnh mẽ nhằm thực hiện  thắng lợi  kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) trên các mặt; kinh tế, văn hoá giáo dục  và an ninh quốc phòng đồng thời  ra sức làm tốt nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam và Lào.
1. Thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý trong các hợp tác xã nông nghiệp.
Bước vào thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp vào đầu 1963 Xuân An có 6 hợp tác xã nông nghiệp  và 01 hợp tác xã ngư nghiệp với tỷ lệ xã viên  chiếm 78,2% dân số ( riêng giáo dân mới có  32% hộ vào hợp tác xã).
Trong quá trình đưa hợp tác xã từ bậc thấp lên bậc cao việc thực hiện công hữu hoá tài sản của các hộ xã viên như trâu bò  nông cụ, không đúng với giá cả thị trường làm thiệt hại  đến lợi ích  của các hộ trung nông, tạo nên sự bất công làm cho xã viên thiếu phấn khởi.
Sau khi thành lập hợp tác xã khí thế cách mạng mới lôi cuốn xã viên hăng hái  trong lao động sản xuất, tính vượt trộti của làm ăn tập thể phát huy tác dụng,  ngày công lao động còn cao từ 2 đến 3kg thóc. Nhưng về sau do nhiều nguyên nhân các hợp tác xã nông nghiệp ở Xuân An tồn tại nhiều yếu kém, mà biểu hiện tập trung trên cả ba mặt:
- Tư tưởng của xã viên  phổ biến là ý thức làm chủ tập thể chưa cao, một bộ phận còn " chân trong, chân ngoài". Cán bộ thiếu công tâm, cá biệt còn độc đoán, tư lợi, năng lực trình độ thấp.
- Bộ máy cồng kềnh, sản xuất thiếu kế hoạch, làm ăn sa sút dân nên ngày công lao động năm sau thấp hơn năm trước.
- Công tác ba khoán, ba quản chưa đi vào nề nếp  dẫn đến tham ô, lãng  phí cả về thời gian, tài chính  và vật chất.
Tình hình các hợp tác xã nông nghiệp ở Xuân An cũng là tình trạng chung của các hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc sau những năm cơ bản hoàn thành hợp tác hoá. Vì vậy ngày 19/12/1962 Bộ chính trị Trung ương  đảng đã có Nghị quyết  số 20 thực hiện cuộc vận động " Cải tiến quản lý, cải tiến kỷ thuật nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc.".
Đây là cuộc vận động lớn nhằm tạo chuyển biến sâu sắc  trong các hợp tác xã nông nghiệp. Cuộc vận động được tiến hành  2 vòng 1 và 2. Vòng 1 bắt đầu từ đầu 1963 với nội dung chủ yếu là:
- Giúp các hợp tác xã xác định phương hướng sản xuất, lập kế hoạch sản xuất, quản lý lao động, đất đai,tài chính, tài sản theo Điều lệ hợp tác xã, theo nội quy đã dược đại hội xã viên thông qua.
- Đảm bảo đủ nước, đủ phân, đủ giống tốt, sản xuất kịp thời vụ, phòng trừ sâu bệnh, cải tiến nông cụ, xây dựng định mức  tiêu chuẩn kỷ thuật, xây dựng các tổ, đội khoa học kỷ thuật.
Được sự tăng cường tổ công tác của huyện, cuộc vận động được thực hiện ở Xuân An từ tháng 6. 1963. Đến cuối 1964, sau 18 tháng vòng 1 được kết thúc đã thu được những kết quả khả quan như:
- Năng lực lập kế hoạch sản xuất hàng vụ hàng năm kế hoạch " ba khoán, ba quản" của ban quản trị và ban kiểm soát đã có nhiều tiến bộ, bước đầu hạn chế có hiệu quả việc rong công,phóng điểm, công tác quản lý lao động, quản lý tài vụ và tài sản được đi vào nề nếp, tệ chè chén trong hội họp, liên hoan giảm dần. Các hiện tượng tham ô, lợi dụng của cán bộ được ngăn chặn,vụ việc được xử lý. Trong xã viên chấm dứt  được hiện tượng xin ra hợp tác xã, tệ chây lười và lao động tắc trách  bị phê phán, ý thức làm chủ tập thể của mọi người  được xây dựng.
- Cơ sở vật chất của hợp tác xã được tăng cường khá nhanh. Đến đầu 1963 tất cả các hợp tác xã nông nghiệp trong xã đều làm được  trụ sở, sân trục lúa, kho tàng tương đối kiên cố  với diện tích khá lớn từ 300m2 đến 500m2.
- Mỗi hợp tác xã  đã tổ chức được tổ, đội khoa học kỷ thuật do thanh niên đảm nhiệm như: Làm bèo dâu, cấy ruộng cao sản, ngâm ủ bắc mạ  theo  phương thức 2 sôi 3 lạnh, dùng cày 51 thay cày chìa vôi, sắm sửa xe Kiến An cho xã viên.
          - Từ cuối 1963 các hợp tác xã đã tổ chức một số đội chuyên làm các nghề phụ như: mộc, rèn, trồng cây và chăn nuôi lợn tập thể giống Móng Cái ( chủ yếu lợn nái cung cấp giống cho xã viên).
          Nhờ làm tốt các nội dung của vòng 1 cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp  nên đời sống xã viên bước đầu được cải thiện, bình quân ngày công lao động chung cả xã đạt từ 1,5 đến 1,7kg, cá biệt có hợp tác xã tiên tiến đạt 2kg/công. Quan hệ sản xuất tập thể được củng cố, đội ngũ cốt cán trưởng thành một bước, cơ sở  vật chất của hợp tác xã được tăng khá nhanh, bước đầu hợp tác xã có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Đời sống văn hoá của xã viên thực sự tươi vui, lành mạnh, làng xóm êm đẹp.

                   " Dân có ruộng dập dìu hợp tác
                   Lúa mượt đồng xanh mướt làng quê …(Tố Hữu).

          2.  Tăng cường công tác an ninh quốc phòng, chi viện cho cách mạng miền Nam và Lào.
          Sau Nghị quyết 15 của Hội nghị Trung ương khoá II ( 1959) cách mạng miền Nam có sự phát triển đột biến, miền Bắc cũng từ đây sục sôi khí thế thi đua " Gió Đại phong, sóng Duyên Hải, Cờ ba nhất”: tiến quân mạnh mẽ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.  Trước  sự lớn mạnh  của cách mạng  2 miền ở nước ta, đế quốc Mỹ  và bè lũ Ngô Đình Diệm  ra sức tìm mọi cách đối phó, điên cuồng và phá hoại  trắng trợn.
          Từ 1961 Mỹ Diệm bắt đầu tung gián điệp  biệt kích ra miền Bắc cả bằng đường bộ, đường không đường biển, đồng thời tìm cách móc nối với bọn phản động ở miền Bắc để xây dựng cơ sở chính trị phá hoại lâu dài. Máy bay  và tàu chiến Mỹ liên tục xâm phạm hải phậm không phận miền Bắc ngày càng tăng.
          Xuân An là xã trọng yếu trong công tác an ninh, quốc phòng ở Nghi Xuân, nơi Bến phà Gia Lách có đông người và xe ngày đêm qua lại, nên công tác bảo vệ trị an được đảng bộ thường xuyên quan tâm.
          Từ cuối 1960 sau khi triển khai thực hiện Chỉ thị 39 của Bộ chính trị về công tác đấu tranh chống phản cách mạng và chống gián  điệp biệt kích, Xuân An đã có nhiều biện pháp  tích cực trong công tác an ninh.
          - Tổ chức học tập cho toàn dân nhận thức về âm mưu, thủ đoạn phá hoại miền Bắc của Mỹ Diệm để giác ngộ lòng yêu nước và nâng cao cảnh giác cho toàn dân.
          - Củng cố lực lượng an ninh viên ở các hợp tác xã và đội sản xuất.
          - Xây dựng quy ước nông thôn đem ra toàn dân học tập và thực hiện.
          - Lập hồ sơ và tổ chức quản lý, giám sát các đối tượng phản cách mạng và tình nghi ở địa bàn.
          Về công tác quốc phòng, Đảng uỷ đã chỉ đạo chính quyền trực tiếp là xã đội khẩn trương củng cố dân quân du kích, tăng cường huấn luyện quân sự, học tập chính trị, đẩy mạnh phong trào " Ba nhất" đuổi kịp xã Xuân Hải lá cờ đầu của huyện và tỉnh trong lực lượng vũ trang địa phương. Qua củng cố 100% đảng viên dưới  46 tuổi đã tham gia dân quân du kích. Mỗi hợp tác xã tổ chức một trung đội dân quân du kích hỗn hợp có từ 50 đội viên. Xã đội đã hoàn thành phương án tác chiến phòng chống gián điệp biệt kích hàng năm có báo động kiểm tra và diễn tập theo phương án.
          Hợp tác xã lập quỹ an ninh quốc  phòng, cung cấp hậu cần cho dân quân công an hoạt động, chi trả công điểm các ngày huấn luyện, diễn tập cho dân quân.
          Tuy chưa nhiều nhưng từ 1962  về sau con em Xuân An lần lượt bí mật vào công tác, chiến đấu ở miền Nam ( đi B) nên nhiệm vụ cấp phát trợ cấp cho anh chị em thương binh, gia đình liệt sỹ  và gia đình có người đi B được chăm lo đầy đủ, tận tay, đúng kỳ.
          Sau công tác tiếp nhận 23 quân nhân chống Pháp phục viên đợt 1 ( 1958) tháng 3. 1959 Xuân An cùng cả huyện thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự đối với nam công dân. Toàn xã đã có 7 thanh niên tự nguyện thực hiện nghĩa vụ quân sự đợt đầu tiên Từ đó về sau Xuân An năm nào cũng hoàn thành chỉ tiêu huyện giao về công tác nghĩa vụ quân sự.
          Từ 1961 về sau Hà tĩnh có vinh dự được Trung ương giao trọng trách giúp đỡ cách mạng Lào ở 2 tỉnh Khăm Muộn và Bô Ly khăm xay ( Trung Lào). Từ đây các lực lượng vũ trang và nhân dân Hà Tĩnh  hàng năm đều cơ động lực lượng lên tác chiến đánh địch, xây dựng vùng giải phóng trên đất nước  “Triệu Voi”.
          Chấp hành mệnh lệnh của cấp trên đầu 1962 huyện Nghi Xuân huy động 230 chiến sỹ dân công phục vụ mặt trận đường số 8 ở Trung Lào. Xuân An được giao nhiệm vụ huy động 1 a dân công 15 cán bộ chiến sỹ. Qua 6 tháng hoạt động ở chiến trường Lào anh chị em đã hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ chiến đấu góp phần để đơn vị dân công hoả tuyến toàn huyện được thưởng huân chương chiến công hạng 3.       
Trước âm mưu đánh phá miền Bắc của đế quốc Mỹ ngày 27/3/1964 Hồ Chủ Tịch đã triệu tập hội nghị chính trị đặc biệt ở Hà Nội tỏ rõ quyết tâm đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn chiến tranh đối với miền Bắc của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai sát cánh cùng đồng bào chiến sỹ miền Nam hoàn thành sự nghiệp thống nhất tổ quốc.
          Từ tháng 5/1964 công tác phòng không nhân dân được triển khai ở huyện các xã trọng điểm trong đó Xuân An là xã xung yếu nơi kề cận thành phố Vinh (Nghệ  An) có phà Bến Thuỷ và trận địa pháo của C 138 E 280 cao xạ quân khu 4, vì vậy công tác sẵn sàng chiến đấu và phòng không nhân dân được triển khai bước đầu.
          Giữa lúc đảng bộ và nhân dân Xuân An đang thi đua lập thành tích kỷ niệm cách mạng tháng 8 và quốc kháng 02/9 vào hồi 12 giờ 15 phút ngày 05/8/1964 sau khi xây dựng lên màn kịch bỉ ổi " Sự kiện vịnh Bắc bộ", Tổng thống Mỹ đã hạ lệnh cho không quân của hạm đội 7 bất ngờ đánh phá vào trận địa cao xạ C 138 E280 ở Xuân An và khu vực trường Cấp I Xuân Giang II nơi có tàu hải quân cùng lúc đánh kho xăng ở Vinh.
          Tuy bị bất ngờ về thời gian địch oanh tạc bằng không quân các lực lượng vũ trang ta đã kịp thời nổ sung, phối hợp đánh trả địch kịp thời, trong đó trận địa cao xạ của bộ đội ở Xuân An đã góp phàn đắc lực cùng quân dân Nghệ An bắn rơi 1 máy bay Mỹ.
          Mặc dầu lần đầu đọ sức với bom đạn của giặc Mỹ nhưng quân dân Xuân An đã vững vàng , gan góc đánh địch ngoan cường. Tiêu biểu cho tinh thần đó là khâu đội trưởng pháo cao xạ Phan Đăng Cát bị gãy chân  vẫn không rời vị trí chiến đấu.
          Mặc dầu nhà bị cháy, bị sập, người bị thương vong nhưng tiếng súng đánh trả địch vừa dứt, dân quân, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân  An đã có mặt kịp thời ở trận địa cao xạ giúp đỡ bộ đội giải quyết hậu quả và khắc phục mọi tổn thất do địch gây nên.
          Thắng lợi trong trận đọ sức đầu tiên  với không lực Hoa Kỳ hiện đại bậc nhất thế kỷ 20 ( 05.8.1964) có ý nghĩa về nhiều mặt. Trước hết là thắng lợi  của ý chí quyết tâm đánh thắng không quân Mỹ, thắng lợi của sự hiệp đồng chiến đấu của tình nghĩa quan dân cá nước mặn nồng. Thắng lợi đó đã tạo tiền đề cho quân và dân Xuân An lập công vẻ vang về sau trong 2 lần đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
          3. Nâng cao dân trí, chăm lo sức khoẻ và đời sống văn hoá của nhân dân. 
          Trên cơ sở thắng lợi của công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp, xây dựng các loại hình hợp tác đánh cá sông, tín dụng và mua bán  sự nghiệp giáo dục ở Xuân An đã có điều kiện phát triển cùng một lúc 3 ngành học, phổ thông, mầm non, ( vỡ lòng) và bổ túc văn hoá, ngoài trường cấp I niên khoá 1962 - 1963 có 12 lớp với hơn 600 học sinh, trường cấp II vừa được thành lập 3 lớp 5, 6, 7  niên khoá 1963 - 1964 với 150 học sinh, toàn xã số người tham gia học bổ túc văn hoá có 120 người, đầu 1964 có gần 80% số cháu trong độ tuổi đi học vở lòng, tất cả các hợp tác xã đều lập tổ gửi trẻ ở các đội sản xuất. Cũng trong thời gian này ở Xuân An bắt đầu có một số con cháu thi đậu vào các trường Đại học, cao đẳng  trong nước và một vài em được tuyển đi ở nước ngoài.
          Phong trào thi đua phấn đấu trở thành tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa trong đội ngũ  giáo viên trường cấp 1, cấp 2, có 100% thầy cô tham gia.
          Sự nghiệp văn hoá thông tin những năm 1961 - 1964 cũng được phát triển. Năm 1962 được huyện hỗ trợ kinh phí và phương tiện Xuân An là một trong 5 xã ở Nghi Xuân có mạng lưới truyền thanh cơ sở thay cho chòi thông tin. Hàng ngày nhân dân trong xã được nghe bản tin thời sự của Đài tiếng nói Việt Nam và bản tin của truyền thanh huyện. Tuy nghiệp vụ còn yếu nhưng nhân viên tổ truyền thanh xã hoạt động nhiệt tình .
          Báo Nhân Dân đã phát hành xuống xã và hợp tác xã đã có báo Hà Tĩnh. Từ cuối 1963 hàng tháng đội chiếu bóng số 76 của huyện đã về xã phục vụ nhân dân không thu tiền.
          Nhờ hợp tác xã có trích lập quỹ văn hoá xã hội nên hoạt động của tổ văn nghệ ở hợp tác xã và đội văn nghệ của xã hoạt động có nề nếp. Từ 1961 về sau năm nào Xuân An cũng có tiết mục chèo, dân ca, múa dân vũ tham gia hội diễn văn nghệ toàn huyện, nhiều tiết mục được giải A và B xã được xếp vào xã khá.
          Là một xã ven núi Hồng Lĩnh có Sông Lam, bến phà và quốc lộ tỉnh lộ chạy qua nên dịch bệnh có nguy cơ  phát triển nhất là sốt rét, tiêu chảy, đau mắt đỏ vv… nên công tác y tế dự phòng của trạm xá từ 1962 đã tiêm phòng dịch có nề nếp và chú ý tuyên truyền phòng dịch trong nhân dân. Trạm xá xã nhà cửa được nâng cấp, có 5 cán bộ trong đó 1964 có y sỹ làm trạm trưởng và có 1 lương y bắt mạch kẻ đơn chữa bệnh theo đông y cổ truyền.
          Các hợp tác xã đều có mạng lưới vệ sinh viên ở  đội sản xuất chăm lo sức khoẻ cho dân và có chế độ trả thù lao bằng công điểm. Công tác hộ sản được tăng cường 01 nữ hộ sinh sơ cấp, đường làng ngõ xóm hàng tháng được dọn vệ sinh.
          Hoạt động thể thao thể dục cũng có nét phát triển mới, đội bóng các hợp tác xã do chi đoàn thanh niên phụ trách mỗi năm 2 kỳ tham gia đấu giao hữu trong xã rất sôi nổi. Phong trào thể dục trong học sinh ở trường, thiếu nhi ở đội sản xuất được duy trì thường xuyên.
          Nhờ giữ gìn vệ sinh kết hợp  với tiêm chủng định kỳ các dịch sốt rét, tiêu chảy, đậu mùa, tả, dại, bị đẩy lùi. Sức khoẻ của nhân dân được cải thiện.
            VI. CHĂM LO CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG CẢ BA MẶT TƯ TƯỞNG TỔ CHỨC VÀ KIỂM TRA. 
          Sau ngày kết thúc công tác sửa sai cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức từ cuối 1958 về sau công tác xây dựng đảng ở Xuân An được làm đồng bộ cả ba mặt: Tư tưởng, tổ chức và kiểm tra. Nhờ đó độingũ đảng viên ngày một tăng, năng lực lãnh đạo của cấp uỷ ngày một tiến bộ sức chiến đấu của các chi bộ  và toàn đảng bộ được nâng lên ngày càng đáp ứng theo yêu cầu nhiệm vụ của, từng thời kỳ.
          1, Công tác tư tưởng:
          Ngoài việc nâng cao giác ngộ giai cấp, đặc biệt là làm cho toàn đảng bộ quán triệt đường lối giai cấp của đảng ở nông thôn trong công tác xây dựng đảng, bố trí cốt cán, đào tạo cán bộ, cấu tạo cấp uỷ, kết nạp đảng viên mới là một nhân tố rất quan trọng, đảm bảo sự thống nhất trong đảng, tăng cường đoàn kết nội bộ.
          Từ cuối  1959 việc học tập và thảo luận rộng rãi  dự thảođề  cương báo cáo chính trị của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3, cùng với việc học tập tài liệu về hợp tác hoá nông nghiệp, tiếp đến thực hiện cuộc " Chỉnh huấn mùa xuân 1960" đã thực sự nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho mỗi cán bộ, đảng viên, làm cho mỗi đảng viên phân biệt được đúng sai trong nhận thức  cuộc đấu tranh giữa 2 con đường XHCN và TBCN ở miền Bắc sau ngày người cày có ruộng.
          Đặc biệt từ khi thực hiện cuộc vận động  " xây dựng chi bộ 4 tốt" công tác tư tưởng đã có nhiều hoạt động liên tục, đi vào chiều sâu đã làm cho nhận thức về nhiệm vụ, vai trò vị trí của đảng viên trong sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội và nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ  miền Bắc, giải phóng miền Nam  và làm nghĩa vụ quốc tế.
          Việc học tập điều lệ đảng, học tập các văn kiện đại hội 3 của đảng là dịp để nâng cao về mặt lý luận MacLêNin cho toàn đảng bộ.
          Công tác tư tưởng trong đảng thông qua cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp đã gắn việc cải tiến quản lý đối với cải tiến kỷ thuật và cương quyết khắc phục tệ tham ô, lợi dụng, chè chén trong hợp tác xã, xây dựng ý thức làm chủ tập thể.
          Sau ngày Bác Hồ triệu tập hội nghị chính trị đặc biệt ( 27.3.1964) công tác giáo dục lòng yêu nước, tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận thức về âm mưu phá hoại miền Bắc của Mỹ Diệm trong đảng bộ có nhiều chuyển biến.
          2. Công tác tổ chức,cán bộ.
          Từ 1958 - 1964 là thời kỳ công tác tổ chức, cán bộ của đảng nói chung và các đảng bộ, chi bộ nông thôn nói riêng có nhiều điều mới mẻ nhằm đáp ứng trước yêu cầu mới của cách mạng.
          Về tổ chức:Từ 1961 Trung ương có quyết định thực hiện chế độ đảng uỷ ở cấp xã và chi bộ ở các hợp tác xã quy mô thôn, đây là một chủ trương đúng, kịp thời  nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng.
          Về công tác cán bộ, đảng bộ Xuân An đã thực hiện đường lối  giai cấp của đảng ở nông thôn là: dựa  hẵn vào bần cố nông  đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông ngăn chặn địa chủ ngốc đầu dậy  và cải tạo địa chủ thành người lao động. Vì vậy cơ cấu cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể, hợp tác xã đội ngũ cán bộ, cốt cán có 2/3 là thành phần bần cố nông.
          Cuối năm 1961 thực hiện chế độ đảng uỷ, đại hội đảng bộ Xuân An nhiệm kỳ 1961 - 1962 gồm 156 dảng viên ( 117 nam, 39 nữ có 3 đảng viên vùng giáo) đã bầu Ban chấp hành  đảng uỷ đầu tiên của đảng bộ ( trước đây là chi uỷ) gồm có 13 đồng chí trong đó 3 đồng chí thường vụ là.

          Đ/c Trần Hà: bí thư
          Đ/c Phan Ấn: phó bí thư chủ tịch xã.
          Đ/c Nguyễn Thái: trực đảng uỷ.

          Cũng thời gian này, đảng bộ thành lập 5 chi bộ cơ sở là: An Thượng, An Lộc, An hoà, An thuỷ và An Hồng. Các đồng chí bí thư chi bộ đều là đảng uỷ viên của đảng bộ xã.
          Từ 1962 trở đi yêu cầu  nhiệm vụ tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác quốc phòng an ninh về mặt tổ chức cán bộ các đồng chí xã đội trưởng, công an xã đều được cấu tạô vào đảng uỷ, uỷ viên uỷ ban hành chính xã. Riêng đồng chí bí thư đảng uỷ xã và bí thư các chi bộ trực tiếp làm chính trị viên xã đội, thôn đội, 100% đảng viên 45 tuổi trở xuống phải tham gia dân quân du kích.
          3. Công tác kiểm tra.
          Từ 1958 về sau, đặc biệt là từ khi thực hiện cuộc vận động xây dựng Chi bộ, đảng bộ 4 tốt được triển khai, việc rà soát, bình xét, phân loại đảng viên hàng năm  ở các chi bộ được thực hiện có nề nếp, đã góp phần làm cho công tác kiểm tra chất lượng đảng viên đi vào nề nếp.
          Uỷ ban kiểm tra đảng của huyện uỷ thường xuyên đi sát cơ sở, kịp thời giải quyết khiếu nại, tố cáo của đảng viên và nhân dân, chỉ đạo đảng uỷ kỷ luật những cán bộ đảng viên  vi phạm điều lệ đảng và pháp luật nhà nước. Trong thời gian từ 1958 - 1964 đảng bộ đã khai trừ 4 đảng viên.
          Công tác xem xét kỷ luật đảng nghiêm túc, kịp thời, có tình, có lý đã có tác dụng giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong đảng.
          Công tác xây dựng chính quyền, củng cố hội đồng nhân dân xã, mặt trận và các đoàn thể ở địa phương  từ 1958 - 1964 thường xuyên được đảng bộ chămlo. Những đảng viên ưu tú, có năng lực, có tín nhiệm với nhân dân được giao nhiệm vụ chủ trì trong uỷ ban hành chính xã, mặt trận, đoàn thể và ban quản trị, ban kiểm soát các loại hình hợp tác xã, đa số các đồng chí đó đã hoàn thành nhiệm vụ.
          Các kỳ bầu cử hội đông nhân dân xã, tỉnh, và quốc  hội từ 1958 - 1964 đảng bộ đã tập trung lãnh đạo tốt nên trên 97% cử tri tham gia, đảm bảo đúng luật bầu cử. Nhân dân đã lựa chọn các đại biểu ưu tú vào cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước  từ xã đến trung ương.
          Trong quá trình xây dựng đảng từ 1958 - 1964 công tác phát triển  đảng viên mới được tiến hành thường xuyên. Lớp đảng viên kết nạp vào mùa xuân 1960 được thực hiện  chặt chẽ đúng điều lệ đảng, toàn xã kết nạp được 6 đảng viên  đã để lại kinh nghiệm tốt cho các năm sau.
          Trong  phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, đặc biệt là trong cuộc vận động "xây dựng chi bộ 4 tốt" đảng bộ đã thường xuyên làm tốt công tác phát triển đảng toàn đảng bộ từ 1961 - 1964 đã kế nạp mới 17 đảng viên. Tất cả các chi bộ đều có Đảng viên mới kết nạp. Hầu hết số Đảng viên mới kết nạp đều dưới 35 tuổi, có trình độ văn hoá cấp 1, cấp 2.
          Năm 1955 - 1964 chặng đường gần 10 năm, trải qua nhiều thử thách phức tạp và cũng đầy sôi động phong trào cách mạng của nhân dân và hoạt động của đảng bộ Xuân An đã để lại nhiều dấu ấn lịch sử.
          Qua thử thách trong cải cách ruộng đất và sửa sai cũng như trong phong trào hợp tác hoá, " Xây dựng 3 ngọn cờ hồng" ở nông thôn, đảng bộ Xuân An đã thực sự trưởng thành cả về tư tưởng và tổ  chức xứng đáng là nhân tố quyết định  mọi thành tựu của xã nhà trong quá trình thực hiện ba nhiệm vụ trọng tâm.
          - Hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ
          - Bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội
          - Chi viện cho cách mạng miền Nam và Lào.
          Quá trình hoạt động, xây dựng đảng bộ và chính quyền và các đoàn thể trong mặt trận tổ quốc đã bộc lộ những hạn chế và thiếu sót như: Công tác  tôn giáo vận có lúc có nơi chưa làm tốt  , nên số hộ giáo dân di cư vào Nam trong 1955 còn nhiều ( chiếm gần 40% giáo dân trong xã).
          Trong xây dựng đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể việc vận dụng đường lối giái cấp của đảng ở nông thôn còn biểu hiện máy móc, rập khuôn, nặng về thành phần, chưa coi trọng năng lực, chất lượng của cán bộ dẫn đến hẹp hòi.
          Vai trò và hoạt động của hội đồng nhân dân xã còn thụ động hình thức .
          Những thiếu sót và tồn tại đó chưa được kiểm điểm khắc phục kịp thời đã hạn chế sức chiến đấu của đảng bộ.

        
  B. ĐẢNG BỘ XUÂN AN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐÁNH THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ TRONG THỜI KỲ 1965 - 1975.
–––––––––––––––––

          Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn trong chiến lược chiến tranh đặc biệt đầu 1965 đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân viễn chinh vào miền Nam và leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, thổi bùng ngọn lửa chiến tranh trên cả hai miền tổ quốc ta.
          Hưởng ứng lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước thiêng liêng của Hồ Chủ Tịch " Không có gì quý hơn độc lập tự do". Đảng bộ Xuân An đã lãnh đạo nhân dân sát cánh cùng quân dân cả nước ra sức thi đua chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi lập nên nhiều thành tích và chiến công  trong hai lần đọ sức và đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
          Do đặc điểm vị trí địa đầu của tỉnh và huyện, nơi có phà Bến Thuỷ, có Sông Lam và các tuyến quốc lộ số I,tỉnh lộ Da Lách - Hội thống chạy qua, nên Xuân An trở thành một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt, có tính huỷ diệt của không quân và hải quân Mỹ trong cả hai lần chiến tranh phá hoại.
          Từ trận đầu của máy bay Mỹ đánh vào Xuân An ngày 05/8/1964 đến trận  máy bay Mỹ đánh cuối cùng vào Xuân An ngày 24/01/1973 đế quốc Mỹ đã 10.721 lần đánh phá ( trong đó có 241 lần bằng pháo kích  đại bác tầm xa của tàu chiến Mỹ từ ngoài biển đông. Chúng đã sử dụng 18.860 lần chiếc máy bay ném xuống Xuân An 76.080 quả bom các loại và 10.930 quả đạn tên lửa, rốc két đạn pháo tầm xa. Máy bay và tàu chiến Mỹ đã đánh phá vào tất cả các xóm, các đội sản xuất làm cháy và sập 885 ngôi nhà dân, tất cả trụ sở, cửa hàng, nhà kho, sân phơi, trạm xá, trường học trong xã đều bị đánh phá. Bom đạn của giặc Mỹ đã gây nên chồng chất tội ác: Giết hại 192 người, làm bị thương 496 người khác, giết chết 328 trâu bò, hơn 1000 lợn và hàng ngàn gia cầm, phá huỷ mặt bằng 262 ha ruộng vườn trong xã.
            I. TÓM TẮT DIỄN BIẾN HAI LẦN CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ TRÊN ĐỊA BÀN XUÂN AN. 
          1. Chiến tranh phá hoại lần thứ 1. ( 3/1965 - 10/1968).
          Sau thất bại của các chiến dịch " mũi lao lửa" và " sấm rền" trong các tháng 2 và 3 năm 1965 tập trung đánh phá vào các mục tiêu  quân sự mà chủ yếu là  các đài ra đa của bộ đội ta dọc ven biển các tỉnh quân khu 4 ( Trong đó có ra đa ở Đèo ngang Kỳ Anh và Rú Nài thị xã Hà Tĩnh vào các ngày 23, 26 và 31/3/1965) từ đầu tháng 4. 1965 không quân Mỹ bắt đầu chuyển sang đánh phá các mục tiêu về giao thông vận tải lúc đầu cũng từ các tỉnh ở quân khu 4 sau đó đánh rộng ra cả miền bắc nhằm chặn đứng sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.
          7 giờ 45 phút sáng ngày 7/4/1965 máy bay Mỹ từ  hạm đội 7 ngoài biển đông nối đuôi nhau vào đánh phá khu vực nam và bắc phà Bến Thuỷ, tiếp đến vào lúc 7 giờ 30 phút ngày 11/4/1965 máy bay Mỹ lại lao từ biển vào đánh phá Vinh ( Nghệ An) năm, bắc phà Bến thuỷ và đoạn đường quốc lộ số 1 từ Xuân An vào Xuân Lam mà chủ yếu là các Cầu Giằng, Cầu Roong. Đây cũng là những trận đánh mở đầu cho quá trình đánh phá vào toàn tuyến giao thông vận tải trên đất Hà Tĩnh ( cả đường sông, đường bộ, đường sắt) trong chiến tranh phá hoại  của đế quốc Mỹ.
          Sau một thời gian tập trung đánh phá  hầu hết các cầu lớn nhỏ  từ giữa 1965 về sau máy bay Mỹ chuyển sang đánh phá các bến phà, các ngã ba, ngã tư đường,  các đèo, dốc, và các đoạn đường xung yếu với các thủ đoạn đánh phá thường xuyên thay đổi, biến hoá để đánh có hiệu quả  và hạn chế sự đánh trả của hoả lực của ta. Cụ thể trong các năm từ cuối 1965 đến đầu 1968  máy bay Mỹ  đã đánh phá  trên đất Xuân An với các thủ đoạn chiến thuật như:
          - Khống chế phà Bến Thuỷ cả ngày và đêm.
          - Vừa đánh tập trung hai đầu nam, bắc, vừa đánh xăm rộng ra hai đầu bến, nơi chúng nghi xe chờ qua phà, vừa trinh sát vũ trang vừa đánh toạ độ gây nên tâm lý căng thẳng thường trực. Thả pháo sáng trên sông và dọc đường.
          - Kết hợp nhiều loại bom đạn như bom tạ, bom tấn, bom sát thương nổ cách mặt nước mặt đất từ 1m - 2m, bom bi, bom từ trường, thuỷ lôi để khống chế  sự lưu thông của phà ( từ đầu 1967)
          - Trong dịp lễ nô nen ( 25/12) đến tết âm lịch hàng năm ( 1965, 1966, 1967) đế quốc Mỹ  còn bày trò hề " thiện chí hoà bình" bằng tạm ngừng ném bom đánh phá. Sau 3 năm leo thang đánh phá miền Bắc song sự chi viện của quân dân miền Bắc cho miền Nam ngày càng to lớn và có hiệu quả. Ở miền Nam cuộc tổng tiến công xuân 1968 bùng nổ, phong trào phản chiếm đòi hoà bình của nhân dân Mỹ và thế giới ngày càng lên cao, dồn đế quốc Mỹ vào thế bị cô lập và thất bại ngày càng toàn diện. Trước tình thế đó ngày 31/3/1968 zôn xơn - tổng thống Mỹ  buộc phải ra lệnh ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, không ra tranh cử tổng thống nước Mỹ nhiệm kỳ 2 và chấp nhận đàm phán với chính phủ ta tại Pari (Pháp).
          Đây là một bước đơn phương xuống thang vô cùng xảo quyệt của đế quốc Mỹ. Trên thực tế việc thực hiện thủ đoạn " ném bom hạn chế" miền Bắc Việt Nam thực chất là một bước "leo thang " mới của Mỹ vì chúng dồn bom đạn, máy bay, tàu chiến - sức mạnh thần kỳ của hai con át chủ bài là không quân và hải quân để đánh phá vào giải đất hẹp từ vĩ tuyến 20 vào vĩ tuyến 17, trong đó trọng điểm đánh phá là Nam Nghệ An và Bắc Hà Tĩnh . Vì vậy Bến Thuỷ - Xuân An là một trong những trọng điểm đánh phá của chúng.
          Trong thời gian " ném bom hạn chế" thủ đoạn đánh phá của đế quốc Mỹ  trên địa bàn Xuân An khác so với thời gian 1967 về trước ở các đặc điểm chủ yếu là:
          - Đánh có tính chất huỷ diệt vào tất cả các xóm trong xã: chặn đứng mọi xe cộ, phương tiện qua phà Bến Thuỷ và dừng chân tạm ẩn náu trong xã, đẩy lùi nhân dân vào núi gây khó khăn cho công tác bảo đảm giao thông, khắc phục  hậu quả địch đánh phá…
          - Đánh tập trung dồn dập, liên tục cả ngày và đêm với nhiều loại bom đạn khác nhau tạo nên sự khủng khiếp, man rợ, gây nên thương vong lớn về người, thiệt hại nhiều về tài sản của dân, tập thể và nhà nước. Không chỉ thả thuỷ lôi, bom từ trường dày đặc  ở dọc Sông Lam trong phạm vi 5 bến vượt sông trong xã mà chúng còn sử dụng đại bác  tầm xa có cả loại 406 ly từ hạm đội 7 ngoài biển đông pháo kích  cả ngày và đêm vào khắp làng xóm, cầu,  phà, bến bãi.
          - Bom đạn Mỹ cùng với gió Lào mùa hạ đã tạo nên sự chết chóc, thiêu cháy cỏ cây không chỉ trong làng, mà dọc Sông Lam và ven núi Hồng Lĩnh tạo nên 15 km2 đất đai ở Xuân An trở thành vùng đất trống trải, trơ trọi, tội ác man rợ của bom đạn Mỹ reo rắc khắp đồng ruộng, xóm thôn.
          Trận đánh đầu tiên của máy bay Mỹ  trong thời kỳ ném bom hạn chế ở XuânAn là trận chúng rải thảm bom chùm vào mờ sáng ngày 7/4/1968 vào hai đầu bến phà chạy dài dọc quốc lộ số 1 đến Cầu Giằng  và trận đánh cuối cùng  là tối 30/10/1968 vào phà Bến Thuỷ.
          2. Chiến tranh phá hoại lần thứ 2 ( tháng 4/1972 - 01/1973)
          Sau 3 năm 5 tháng ngừng đánh phá miền Bắc, đúng 01 tuần lễ sau khi quân dân miền Nam  mở màn cuộc tiến công chiến lược 1972 mà hướng chính là Trị Thiên, trước nguy cơ sụp đổ của quân nguỵ đế quốc Mỹ đã vội vã " Mỹ hoá" cuộc chiến tranh  bằng sử dụng không quân và hải quân ồ ạt đánh phá miền Bắc  gây nên cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2, hòng chặn đứng ra sức  tiến công như vũ bão của quan và dân miền Nam.
          - ở Hà Tĩnh ngày 9/4/1972 đế quốc Mỹ đã sử dụng 180 lần chiếc máy bay đánh phá từ mờ sáng  đến đêm khuya nhiều nơi trong đó có 20 lần chiếc 3 lần đánh phá  phà Bến Thuỷ và đoạn đường số 01 từ Xuân An  vào Xuân Lam băm nát nhiều khúc đường và đánh sập các Cầu Giằng, Cầu Roong  mới được khôi phục lại từ đầu 1970. Ngày 10/4/1972 B52 Mỹ lần đầu đánh vào Vinh và các xã phụ cận trong đó có Xuân An, Ở trận đánh sau cùng của máy bay Mỹ vào xã Xuân An trong chiến tranh phá hoại lần thứ 2 là vào hồi 10 giờ 45 phút ngày 24/01/1973 ở phà Bến Thuỷ.
          So với chiến tranh phá hoại lần thứ 1, chiến tranh phá hoại lần thứ 2, địch đánh trên địa bàn Xuân An nói riêng và ở miền Bắc nói chung có những điều mới là.
          Không leo thang từng nấc, mà ngay từ đầu đã đánh phá phủ đầu dồn dập, mục tiêu chủ yếu vẫn là giao thông vận tải, có sự phối hợp ngay từ đầu cả không quân và hải quân, sử dụng nhiều loại bom đạn hỗn hợp ngay từ đầu. Trong đánh phá  giao thông đế quốc Mỹ vừa cùng 1 lúc tập trung vào 3 mục tiêu.
          - Đánh cầu, phà và các tuyến, đoạn đường xung yếu.
          - Phong toả vận tải sông, vận tải biển ngay từ đầu bằng thuỷ lôi bom TN.
          - Đánh mạnh vào nơi dấu chân hàng, nơi tập kết phương tiện, bằng thủ đoạn sử dụng B52 rải thảm ngày 21/9/1972 địch dùng B52 đánh vào khu vực ven núi Hồng Lĩnh ở Xuân An.
          - Mức độ  đánh phá tập trung, ác liệt  và ngay từ đầu đã có tính chất huỷ diệt.
          Giữa hai thời kỳ chiến tranh phá hoại, cũng như các tỉnh miền Bắc, Xuân An có 1.245 ngày (3 năm 5 tháng) tạm thời có hoà bình, song vẫn thường xuyên bị không quân Mỹ trinh sát, khống chế vùng trời. Đặc biệt từ 26 đến 30/12/1971 đế quốc Mỹ đã sử dụng 117 lần máy bay đánh phá Vinh, Đức Thọ, Nghi Xuân trong đó có vùng Bến Thuỷ thuộc xã Xuân An. Cùng với quân dân Vinh (Nghệ An) quân dân Xuân An đã nổ súng đánh trả, góp phần bắn rơi 1F4H.
            II. NHỮNG CÔNG TÁC TRỌNG TÂM CỦA ĐẢNG BỘ VÀ QUÂN DÂN XUÂN AN TỪ 1965-1975.
          1. Tổ chức lực lượng dân quân du kích làm nòng cốt cho phong trào toàn dân tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, làm tốt công tác phòng không nhân dân.
          Khác với  các xã trong huyện Nghi Xuân  và tỉnh Hà Tĩnh, Xuân An là một trọng điểm, xung yếu về mặt quân sự cũng như nơi địa đầu của tuyến giao thông thuỷ và bộ ở Hà Tĩnh, tiếp giáp thành phố Vinh Nghệ An, đã đụng đầu với không quân Mỹ nguỵ từ 05/8/1964. Nên việc chuyển tình hình mọi mặt từ  thời bình sang thời chiến được đảng bộ và nhân dân trong xã thực hiện khá suôn sẻ trước khi địch đánh  phá xã nhà trong những ngày đầu  của chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.
          Cuối 1964, đặc biệt là từ đầu 1965 chấp hành Chỉ thị 81 của Bộ chính trị và Nghị quyết tháng 10/1964 của thường vụ tỉnh uỷ, Đảng bộ Xuân An đã tập trung  làm tốt công tác  tư tưởng và tổ chức đã làm cho mọi người  trong xã nhận thức ngày càng sâu hơn về âm mưu chiến lược của đế quốc Mỹ trong việc phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện miền Nam của miền Bắc  nhằm xây dựng tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu.
          Được sự chỉ đạo của huyện, Xuân An từ đầu 1965 đã tập trung vừa làm công tác tổ chức lực lượng chiến đấu phục vụ chiến đấu và công tác phòng không  nhân dân. Dân quân du kích được chấn chỉnh về tổ chức, phát triển quân số và triển khai học tập chính trị và huấn  luyện quân sự. Đến đầu 1965 toàn xã có trên 300 cán bộ chiến sỹ dân quân du kích đạt tỷ lệ 10% so với dân số, 100% đảng viên dưới 50 tuổi đều tham gia, trực tiếp làm cán bộ. Ngoài lực lượng trực chiến đánh máy bay bằng súng bộ binh  gồm 1B có 30 người do xã đội phó chỉ huy toàn xã tổ chức theo đơn vị hợp tác xã. mỗi hợp tác xã có 1B hỗn hợp trong đó có 2A dân quân, 1A du kích , tỷ lệ nữ tăng từ 10% lên 15% tổng quân số. Cuối 1965 tổ chức lực lượng lão quân, toàn xã có 100 đội viên từ 55 đến 65 tuổi, mỗi hợp tác xã  có 1A lão quân. Hội mẹ chiến sỹ được củng cố do Hội Phụ nữ xã phụ trách. Tất cả nam, nữ đoàn viên và quan nhân phục viên trong xã đều tham gia dân quân.
          Lực lượng tại các hợp tác xã có các đơn vị chuyên môn như: đội cấp cứu chiến thương, đội xung kích giải quyết hậu quả sau mỗi lần địch đánh phá làm  các công việc sữa đường, lấp hố bom, cứu xe, cứu hàng, gác đèn ở cây  Da Lách, cứu người sập hầm, chôn cất người bị chết. Lực lượng còn lại làm nhiệm vụ cơ động sẵn sàng ứng cứu giao thông, giúp đỡ bộ đội đào đắp công sự, sẵn sàng ứng cứu phà Bến Thuỷ. Từ giữa 1967 về sau để đối phó với  thủ đoạn ném bom từ trường, thuỷ lôi xã tổ chức đội công binh dân quân phá bom.
          Công tác phòng không nhân dân từ đầu 1965 được triển khai đồng bộ, Ban phòng không nhân dân xã do đồng chí chủ tịch uỷ ban xã làm trưởng ban, ở các hợp tác xã do đồng chí chủ nhiệm phụ trách. Sau trận 26/3/1965 máy bay Mỹ đánh vào Núi Nài ở thị xã Hà Tĩnh, huyện chỉ đạo Xuân An khẩn cấp tổ chức đào hầm hào phòng tránh máy bay tổ chức sơ tán dân ở xóm An Thượng vào núi Hồng Lĩnh. Nhờ chuẩn bị khá chu đáo nên 2 ngày mồng 7 và 11 tháng 4 năm 1965 hơn 20 lần chiếc phản lực Mỹ đến đánh phá Bến thuỷ, Rú Cơm, Cầu Giằng song nhân dân đều an toàn nhờ có hầm hào đầy đủ.
          Tuy chưa bắn rơi được máy bay Mỹ, nhưng đội trực chiến của dân quân  Xuân An gồm 14 người  với trung liên và súng trường  đã kịp thời nổ súng, đánh  máy bay địch  trong suốt  thời gian  chúng đánh phá vào xã.
          Qua hai lần trực tiếp đụng đầu với không quân Mỹ vào tháng 4/1965 những bài học thành công và chưa thành công đã được đảng uỷ kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm để bổ cứu, hoàn thiện phương án đánh địch và phòng không nhân dân.
          Sáng 10/9/1965 nhiều tốp phản lực Mỹ từ biển lao vào đánh phá nhà máy điện Vinh, hai bờ nam, bắc phà Bến Thuỷ. Ngay từ loạt đạn đầu, bộ đội cao xạ ở Vinh bắn trúng 1 chiến F4H. Giặc lái nhảy dù xuống cánh đồng ven chân núi Hồng Lĩnh thuộc xã Xuân Viên. Nhận được tín hiệu cầu cứu của tên giặc lái, hàng chục máy bay phản lực, cánh quạt, trực thăng từ hạm đội 7 lao vào Nghi Xuân cứu giặc lái. Bộ đội cao xạ ở Vinh  nhanh chóng cơ động giữa ban ngày vượt Sông Lam qua Nghi Xuân đánh địch dân quân Xuân An, Xuân giang, Xuân Mỹ, Xuân Viên, Xuân Hồng, Xuân Lam cùng hàng tram chiến sỹ, cán bộ quân đội trên địa bàn Nghi Xuân cùng đông đảo nhân dân đã sát cánh cùng bộ đội vừa đánh trả máy bay địch vừa bao vây khép chặt lưới thép nơi tên giặc lái ẩn nấp. Thêm hai máy bay Mỹ đi cứu giặc lái bị quân dân  Nghi Xuan trừng trị, chúng mang cả đám cháy lao ra biển đông . Một cuộc đánh trả máy bay Mỹ vô cùng hào hùng, sinh động giữa ban ngày đã diễn ra ngoạn mục. Đến 4 giờ chiều, khi tên giặclái bị Trần Thái Quát cùng dân quân Xuân Viên bắt sống, bọn đi cứu giặc lái mất tín hiệu của tên cầu cứu vội vã bay ra ham đội 7.
          Sau trận máy bay Mỹ giết hại 33 học sinh ở trường cấp 2 Hương phúc, huyện Hương khê ( 9/2/1966). Tất cả các lớp học của Xuân An được sơ tán sâu vào núi Hồng Lĩnh, hạ thấp xuống mặt đất, đắp luỹ và đào hầm hào 4 phía để bảo đảm an toàn trong mọi tình huống cho học sinh và thầy cô.
          Giữa 1967, sau hội nghị rút kinh nghiệm đánh máy bay bằng súng bộ binh của dân quân toàn tỉnh, đội trực chiến của dân quân  Xuân An được củng cố, tăng thêm các đội viên trẻ, đảng viên trẻ và được huyện đội trang bị thêm 3 khẩu 12 ly 7.
          Ngoài các hình thức đánh địch từ đầu 1965, tay cày tay súng, trực chiến không thường xuyên và trực chiến thường xuyên, toàn xã có trên 100 tay súng bộ binh,  tham gia đánh máy bay cùng bộ đội cao xạ với hàng trăm lần nổ súng. Tuy chưa độc lập bắn rơi được máy bay nhưng lưới lửa tầm thấp của dân quân Xuân An đã có tác dụng buộc địch khi vào đánh Vinh - Bến Thuỷ phải bay cao, bộc lộ đội hình từ xa nên bị lưới lửa cao xạ, tên lửa  đánh trả có hiệu quả, hiệu suất đánh trúng mục tiêu của chúng ngày càng thấp.
          Sau ngày được trang bị vũ khí mới ( 12 ly 7), hình thức đánh địch của dân quân Xuân An cũng như các xã trong tỉnh có sự đổi mới được tổ chức thành cụm tác chiến từ 2 đến 3 xã gồm 5 - 7 khẩu 12 ly 7 thường xuyên cơ động, đón lỏng đường bay của địch trên địa bàn huyện.
          Từ tháng 4/1968 đến 10/1968 đế quốc Mỹ thực hiện " ném bom hạn chế miền Bắc" từ vĩ tuyến 20 trở vào để dồn bom đạn vào vùng " Cán xong" nhỏ hẹp của Quân khu 4. Xuân An - Phà Bến thuỷ là trọng điểm đánh phá có tính huỷ diệt của cả không quân và hải quân Mỹ không kém gì ngã ba Đồng Lộc.
          Để đối phó với sự đánh phá dồn dập, cả ngày và đêm, với nhiều loại bom đạn của máy bay và tàu chiến Mỹ, đảng uỷ và Uỷ ban xã đã chấp hành Chỉ thị của cấp trên triệt để sơ tán 100% hộ dân vào núi Hồng Lĩnh, chỉ để lại lực lượng dân quân,thanh niên và đảng viên dưới 50 tuổi bám làng xóm vừa chiến đấu vừa sản xuất. Tại nơi sơ tán nhân dân làm lán, đắp luỹ  đất che chăn bom đạn. Đây là thời gian công tác phòng không nhân dân thực hiện nghiêm ngặt nhất. Ban chỉ huy xã đội hướng dẫn các hợpt ác xã lập các đội  dan quân chuyên làm hầm chữ A, đắp luỹ giúp đỡ  các gia đình chính sách, các hộ neo đơn, xã chặt cây công sản giúp nhân dân có vật liệu làm hầm, làm lán. Toàn xã có trên 1500 hầm chữ A, 3000 hầm tròn, gần 1000 lán sơ tán, 15km hào giao thông, sử dụng trên 3 vạn cây tre, gỗ và hàng vạn ngày công lao động.
          Mặc dù có sự chuẩn bị đối phó chu đáo trong công tác  phòng tránh. Song do sự đánh phá ác liệt của máy bay và tàu chiến Mỹ nên trong 7 tháng đế quốc Mỹ ném bom hạn chế đã gây nên tổn thất người và tài sản. Số người chết và bị thương nhiều hơn 25% trong các năm 65 - 67 nhà cửa bị cháy bị sập và trâu bò, gia cầm bị chết tăng gấp 2 lần thời gian từ 1967 trở về trước.
          Trạm y tế xã tuỳ chỉ có 7 nhân viên song đã làm tốt chức năng sơ cứu người bị thương, kịp thời  chu đáo. Màng lưới, cấp cứu trong các hợp tác xã có tới hàng chục đội viên, rải đều trong các đội sản xuất. Mỗi gia đình đều có túi thuốc, bông băng dự phòng và được hướng dẫn băng bó vết thương, vô trùng, hô hấp cứu người  sập hầm bị ngạt…
          Đội trực chiến súng 12ly 7 của dân quân do đồng chí xã đội phó chỉ huy đã cùng đội trực chiến của xã Xuân giang lập thành một cụm hoả lực gồm 8 khẩu cơ động, phục kích, đón lỏng đường bay, bay thấp  của máy bay Mỹ vào đánh phá 2 xã Xuân An và Xuân Giang. Ngày 01/5/1968 cụm trực chiến của dân quân 2 xã trên trục đường 18 đã đón lỏng, nổ súng kịp thời độc lập bắn rơi 01 máy bay F4H giặc lái Mỹ vừa chạm đất đã bị nữ dân quân  Bùi Thị Ái bắt sống bằng chiếc liềm cắt cỏ. Trong nhiệm vụ vụ phục vụ các đơn vị bộ đội cao xạ của Quân khu 4 và của Bộ quốc phòng cơ động qua xã và chiến đấu trên địa bàn xã  đảng bộ và quân dân XuânAn đã tận tình và đáp ứng mọi yêu cầu. đã đào đắp 27 trận địa cao xạ cấp đại đội và tiểu đoàn trong địa bàn  đã sử dụng hơn 1800 ngày công. Ngoài việc đào đắp công sự, việc cung cấp lá nguỵ trang dẻ lau pháo, nước chè xanh và bánh trái uỷ lạc bộ đội của các cháu thiếu nhi, các cụ lão ông, lão bà đã trở thành nếp sống thời chiến. Các đơn vị dân quân đã giúp đỡ bộ bội hàng ngàn ngày công trong việc tiếp đạn, đào công sự, chống lầy kéo xe kéo pháo cơ động, đặc biệt đảng bộ và nhân dân Xuân An đã làm tốt công tác liệt sĩ, chăm sóc thương binh đối với các đơn vị bộ đội đánh địch ở địa phương. Ngoài ra trong các nhiệm vụ đột xuất bảo đảm cho các đơn vị tên lửa, các sư  đoàn cao xạ của Bộ quốc phòng vượt  phà Bến Thuỷ vào phía nam tác chiến, các lực lượng dân quân và thanh niên Xuân An đã bất chấp  bom đạn địch sát cánh cùng bộ đội bảo đảm an toàn khi qua trọng điểm phà Bến Thuỷ.
          Ngày 10/4/1972 mở đầu chiến tranh phá hoại lần thứ 2, đế quốc Mỹ sử dụng B 52 rải thẩm thành phố Vinh và các vùng phụ cận trong đó có địa bàn Xuân An vùng phà Bến thuỷ, cây Da Lách, các trận địa cao xạ và khu vực ven quốc lộ số 1 vào tận cầu Giằng thuộc Xuân Hồng. Tiếp đến sáng 11/4/1972 hàng chục chiếc máy bay  phản lực đến đánh phá nhiều giờ vào khắp các xóm trong xã. Bom đạm Mỹ đã đốt cháy hơn 50 ngôi nhà dân, giết hại 19 người, đánh trúng 2 trận địa pháo gây thương vong nặng cho 2 khâu đội pháo cao xạ 57ly.
          Trước thủ đoạn đánh phá mới của địch, đảng bộ Xuân An đã kịp thời kiểm điểm, rút kinh nghiệm, đề ra nhiều biện pháp cấp bách trong công tác phòng không nhân dân và nhanh chóng chuyển toàn bộ tình hình trong xã từ thời bình sang thời chiến như:
          - Kiên quyết sơ tán 100% số hộ dân vào chân núi Hồng Lĩnh.
          - Thực hiện toàn dân ngủ hầm ban đêm.
          - Lập đội dân quân ở các hợp tác xã chuyên trách làm hầm hào giúp nhân dân.
          - Tổ chức mạng lưới  cấp cứu chiến thương tận các đội sản xuất.
          - Xây dựng trung đội 12 ly 7 trực đánh máy bay cả đêm và ngày. Nhờ tập trung làm tốt công tác trên nên đã từng bước hạn chế được thương vong về người và tài sản, hiệu quả phối hợp đánh địch của dân quân có thành tích cao hơn. Ngày 20/7/1972 cụm 12ly7 của dân quân2 xã Xuân An và Xuân Giang đã độc lập bắn rơi 01 máy bay A7 và trong các tháng 8/1972 đến 01/1973 đã phối hợp với E 283 cao xạ Quân khu 4 đánh địch bảo vệ Phà Bến thuỷ bắn rơi: 03 máy bay Mỹ.
          2. Bảo đảm giao thông vận tải thông suốt.
          Âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ gây ra 2 lần chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nói chung và Xuân An nói riêng là nhằm chặn đứng  sự chi viện sức người sức của ở hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.
          Vì vậy bảo đảm giao thông vận tải liên tục thông suốt trong mọi tình huống là nhiệm vụ hàng đầu,  là công tác trung tâm và là nơi đọ sức quyết liệt của quân dân ta với không quân và hải quân Mỹ.
          Do cơ sở vật chất còn nghèo, cùng với việc nhận thức về âm mưu và thủ đoạn đánh phá của địch còn hạn chế, nên những tháng đầu khi đế quốc Mỹ đánh phá, công tác đảm bảo giao thông ở Xuân An không khỏi bị động, lúng túng, gặp nhiều tổn thất về người, phương tiện vận tải và hàng hoá.
          Được sự chỉ đạo của huyện, sự phối hợp của các lực lượng bảo vệ và vận hành phà Bến Thuỷ, rút kinh nghiệm hay của xã Kỳ Trình ( Kỳ Anh) về phong trào toàn dân làm giao thông vận tải, nên từ tháng 10/1965 về sau công tác đảm bảo giao thông vận tải ở Xuân An đã có những chuyển biến mạnh mẽ, trở thành một đơn vị điển hình xuất sắc của Nghi Xuân.
          Xã đã thành lập Ban đảm bảo giao thông do đồng chí Chủ tịch xã làm trưởng ban. Thành viên của Ban gồm các đồng chí đứng đầu của Ban chỉ huy xã đội, công an, chủ nhiệm các hợp tác xã. Ban đảm bảo giao thông xã trực tiếp phân đoạn đường cho từng hợp tác xã có trách nhiệm trực tiếp huy động lực lượng tại chỗ để kịp thời ứng cứu cầu đường bị hư hỏng, xe cộ bị đánh cháy hay bị lầy bị lún, những nơi bị nặng nề sau mỗi lần địch đánh phá xã mới huy động lực lượng hỗ trợ.
          Để làm được việc đó về tổ chức lực lượng làm giao thông vận tải đã sớm hình thành 2 bộ phận.
          + Toàn dân tham gia bằng cách chuẩn bị sẵn vật liệu dự phòng trong mỗi gia đình khi nào cũng sẵn có: 0,5 m3 đá, 5 cọc tre hay gỗ dài 3 m, 5 tấm phên tre rộng mỗi tấm 1,5m2 và 01 gánh cành lá cây để làm vật liệu ứng cứu giao thông như: lLấp hố bom, chống lầy…
          + Dân quân và thanh niên là lực lượng nòng cốt được tổ chức thành các tổ đội chuyên trách  ở từng hợp tác xã như:
          - Tổ gác đèn ban đêm ở ngã ba Da Lách do nữ dân quân phụ trách mỗi đêm có 03 người thay phiên trực đèn để làm tín hiệu cho xe xuống phà và qua đường được an toàn. (Nếu đèn sáng là an toàn, đèn tắt là không an toàn).
          - Tổ, đội ứng cứu mặt đường bị đánh hỏng, cứu xe, cứu hàng bị đánh, chống lầy cho xe, tham gia làm đường xế, đường tránh.
          - Làm đường xuông bến phà mới, làm các điểm dấu xe, dấu hàng trong xã, tham gia đào  âu để dấu phà, dấu ca nô.
          - Đội công binh dân quân rà phà bom mìn, thuỷ lôi địch. Do tổ chức đươc lực lượng vừa rộng rãi vừa chuyên trách nên việc huy động vật liệu và nhân lực được nhanh, tránh được bị động, chống được lãng phí, kịp thời khắc phục tốt hậu quả sau mỗi lần địch đánh phá gây tổn thất cho giao thông và vận tải trong xã.
          Tháng 7/1965 Ban đảm bảo giao thông vận tải tỉnh khởi công mở tuyến đường tránh quốc lộ số 1 từ  Xuân An vào cầu Treo Minh Lộc nay là Đậu Liêu ( thị xã Hồng Lĩnh). Đây là đoàn đường tránh đầu tiên ra đời ở Hà Tĩnh mang số hiệu đường số 18 dài 18km mở ven chân núi Hồng Lĩnh ở phía đông từ làng Trung Lộc Xuân An qua Xuân Viên vượt truông  Cộng Khánh Xuân Lĩnh.
          Tham gia mở đường ở Xuân An có 1C dân công gồm 120 đoàn viên và dân quân. Sau 3 tháng lao động khẩn trương, có sự tham gia của đội cơ giới công trình của Bộ giao thông chi viện, đường 18 được thông xe vào cuối tháng 9/1965.Phát hiện ra đường 18 mới mở, máy bay Mỹ ra sức đánh phá cả ngày và đêm, ngày càng quyết liệt. Từ đầu tháng 10/1965 về sau tỉnh và huyện giao trách nhiệm cho đảng bộ và nhân dân Xuân An bảo đảm thông đường thông xe trên đường 18 với chiều dài hơn 3km chạy qua xã. Trạm gác đèn ban đêm  của dân quân An Hồng được thiết lập từ đây.
          Giữa năm 1966 công ty sông biển Hà tĩnh được thành lập, tiếp đến cảng Xuân Hải được hình thành tiếp nhận hàng từ ngoài biển theo cửa Hội vào ngày càng lớn. Từ đây tuyến vận tải đường sông qua Bến Thuỷ  và vận tải ô tô bằng đường bộ qua đường tỉnh lộ Da Lách - Hội thống trở thành trọng điểm khống chế, đánh phá ác liệt của cả máy bay và tàu chiến Mỹ.
          Do vị trí thuận lợi của Xuân An, nên từ 1967 về sau địa bàn các xóm trong xã trở thành vùng tập kết kho trung chuyển hàng hoá  vật tư quốc phòng và dân sinh, nơi dấu xe, dấu thuyền. Vì vậy trong thời kỳ ném bom hạn chế và chiến tranh phá hoại lần thứ 2, Xuân An được binh trạm 9 chọn là vùng kho quan trọng số 01 ở phía Bắc Hà Tĩnh. Cũng từ đây địch tập trung đánh phá có tính huỷ diệt  vào tất cả các thôn xóm, đội sản xuất trong xã nhằm mục đích đẩy dân vào núi, ngăn cản việc cứu xe, cứu đường và phá hoại hàng hoá, phương tiện vận tải của ta cất dấu ở Xuân An.
          Trong những ngày ác liệt ấy, đế quốc Mỹ không chỉ dùng máy bay phản lực, tàu chiến mà từ tháng 4/1972 chúng dùng B52 rải thảm, đánh toạ độ vào Xuân An nhiều lần. Nhận rõ trách nhiệm bảo vệ hàng hoá tài sản của quân đội, của nhà nước như bảo vệ của cải của gia đình, đảng bộ và nhân dân Xuân An đã tự giác làm mọi việc, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng và tài sản để bảo vệ hàng hoá, phương tiện vận tải. Toàn xã có 398 hộ dân tự nguyện bàn giao nhà cửa vườn tược cho nhà nước để cất dấu hàng hoá, xe cộ còn cả nhà sơ tán vào núi Hồng Lĩnh nhằm thực hiện trọn vẹn quyết tâm " xe chưa qua nhà không tiếc" và " quý hàng như quý người " .
          Ngoài nhiệm vụ huyện giao phụ trách thông xe trên 3 tuyến đường bộ quốc lộ số 01, đường tỉnh lộ Da lách Hội thống và đường tránh số18 đi Minh Lộc trong phạm vi trên địa bàn xã, Xuân An còn có nhiệm vụ hết sức quan trọng, nặng nề là hiệp đồng, chi viện kịp thời  cho việc thông xe nam phà Bến Thuỷ. Trong cả hai lần gây ra chiến tranh phá hoại, phà Bến Thuỷ cả phía Nghệ An  và Hà Tĩnh luôn  là một trọng điểm đánh phá ác liệt bậc nhất ở Nghệ Tĩnh. Đảng bộ và nhân dân Xuân An đã bền gan, chia sẽ mọi thử thách, sát cánh cùng công nhân bến phà, thanh niên xung phong, bộ đội cao xạ và công binh giữ vững sự an toàn, thông suốt cho hàng vạn chuyến xe, hàng vạn bộ đội, cán bộ và nhân dân vượt sông Lam vào Nam, ra Bắc. Có thể nói không thế tính hết công sức, mồ hôi và cả xương máu của người dân Xuân An đã đổ ra để đảm bảo thông xe, thông hàng ở bến phà anh hùng ở Bến Thuỷ. Hơn 01 vạn ngày công của nhân dân trong xã đã góp sức vào việc gác đèn ở ngã ba Da Lách, chèo đò ngang, đào hầm hào giao thông, đào đắp trận địa cao xạ, làm 5 bến phà phụ để chủ động trong mọi tình huống, lấp hố bom, cứu xe, cứu hàng, cứu người sau mỗi lần địch đánh phá, đào 23 âu thuyền dấu phà, ca nô, tổ chức nơi dấu xe…
          Đặc biệt trong những lần phối hợp với các lực lượng để đảm bảo cho các sư đoàn cao xạ, trung đoàn tên lửa của Bộ Quốc phòng cơ động vào các tỉnh Quảng Bình, khu vực Vĩnh Linh đánh địch, bảo vệ các đợt vận chuyển hàng đột xuất. Cả 3 lần tổ chức tết Quang Trung vào dịp lễ Nô en đến tết Âm Lịch các năm 1966, 1967, 1968 trong điều kiện đế quốc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc hàng ngàn người dân  Xuân An đã ăn tết đón xuân trên mặt đường, trên bến phà.
          Từ giữa 1967, nhất là trong thời gian Mỹ ném bom hạn chế tháng 4 đến tháng 10/1968 và trong chiến tranh phá hoại lần thứ 2 không chỉ ở phà Bến Thuỷ mà nhiều nơi  ở Xuân An phải chịu sự khống chế nguy hiểm và ác liệt của thuỷ lôi, bom nổ chậm và bom từ trường của  Mỹ.
          Được huyện đội Nghi Xuân trực tiếp giúp đỡ , đội phá bom thuỷ lôi của công binh dân quân của Xuân An do xã đội trưởng trực tiếp chỉ huy gồm 28 chiến sỹ ( có 8 chiến sỹ gái) đã nêu cao dũng khí, bất chấp hiểm nguy lập nên nhiều sự tích  trong những tình huống  cực kỳ khó khăn.
          Với phương châm " có gì phá nấy, ở đâu có bom từ trường, thủy lôi địch là tổ chức phá ngay" đội dân quân công binh chỉ với lưỡi cày, diệp cày hỏng, sát vụn và nam châm láy từ đi na mô của đèn xe đạp đã mưu trí, sáng tạo phá nổ nhiều bom từ trường và thuỷ lôi Mỹ.
          Từ tổ chức phá trên mặt đất, tiến lên tổ chức phá thành công trong bùn lầy và dưới sống Lam với nhiều hình thức đa dạng như dùng bè chuối, buộc sắt vụn  và nam châm phiá dưới, thả xuống Sông Lam để phá huỷ thuỷ lôi thành công, góp thêm kinh nghiệm hay cho nhiều nơi trong huyện.
          Tiểu đội dân quân gái do Đậu Thị An và Nguyễn Thị Hồng  chỉ huy đã mưu trí độc lập phá nổ nhiều quả bom từ trường, chị em còn gan dạ tổ chức gánh bom ra xa nhà dân, xa nhà kho của hợp tác xã để phá bom đỡ tổn thất nhà cửa và tài sản của nhân dân  và tập thể, xã đội trưởng Lê Thuý cùng anh em trong đội dân quân công binh đã bền gan bám sông, bám đường bám làng phá huỷ trên 200 quả thuỷ lôi và bom từ trường .
          Thực hiện chủ trương phát triển vận tải nhân dân của tỉnh uỷ Hà Tĩnh từ tháng 9/1968 Xuân An  đã tổ chức đội xe đạp thồ tham gia cùng các xã trong huyện chở hàng  vào các huyện phái nam tỉnh và huy động mỗi hợp tác  xã một đại đội dân quân và thanh niên gồm  150 người gánh bộ hàng vào nhập ở kho binh trạm 9 tại Minh Lộc. Chỉ tiêu huyện giao như trên nhưng đông đảo nhân dân đã xung phong, nhiều cụ già, thiếu niên và phụ nữ trung niên đã tự giác đi gánh hàng.
          Trong suốt hai lần đế quốc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại, Xuân An là nơi cất dấu, tập kết hàng vạn tấn hàng hoá của quân đội và của ngành thương nghiệp, lương thực. Song nhờ ý thức bảo vệ, yêu quý tài sản nhà nước của toàn dân nên công tác giữ gìn trật tự, an toàn được ổn định. Trong chiến tranh đời sống nhân dân gặp muôn vàn thiếu thốn, khó khăn nhất là lương thực, thực phẩm, công nghệ p hẩm nhưng không xẩy ra một hiện tượng trộm cắp hàng hoá  trên địa bàn  Xuân An. Đời sống nhân dân còn thiếu lương thực nhất là lúc giáp hạt, tiêu chuẩn hợp tác  xã phân phối cho dân thấp hơn nhiều xã trong tỉnh, bình quân chỉ có 10kg thóc/người trong tháng nhưng khi có chủ trương  tạm vay gạo để kịp chuyển vào chiến trường những tháng cuối 1968, nhân dân Xuân An đã nêu cao nghĩa cử "nhường cơm sẻ cháo" để góp hơn 4 tấn gạo cho nhà nước tạm vay.
          3. Làm tốt nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến và thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.
           Suốt thời kỳ chống Mỹ nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, trở thành việc làm thường xuyên cấp bách của đảng bộ và nhân dân Xuân An.
          Với quyết tâm vì miền Nam ruột thịt " thóc không thiếu cân, quân không thiếu người", trong hoàn cảnh vừa chiến đấu vừa sản xuất, song đảng bộ và nhân dân Xuân An năm nào cũng làm tốt công tác tuyển quân, huy động lực lượng thanh niên xung phong, đi dân công hoả tuyến và bổ sung lao động cho ngành giao thông vận tải. Hàng năm hai đợt tuyển quân và huy động dân công diễn ra đầu năm, năm nào cũng có chỉ tiêu từ 30 đến 50 người , có năm như 1968, 1972, 1974 và đầu 1975 huy động gấp rút đến 2,3 đợt. Nét nổi bật trong việc huy động lực lượng  chi viện cho tiền tuyến ở Xuân An là phát động được toàn dân tham gia với phong trào " ba cử, hai nguyện". Đặc biệt, khác với thời kỳ chống Pháp  là trong những năm chống Mỹ lực lượng nữ tham gia đi bộ đội, thanh niên xung phong, nhất là dân công hoả tuyến với số lượng rất lớn. Riêng đi dân công hoả tuyến bình quân mỗi đợt có xấp xỉ 40% quân số là nữ, có người đi 2,3 khoá dân công hoả tuyến trong những năm đánh Mỹ.
          Từ tháng 3/1965 đến tháng 4/1975 trong 10 năm chống Mỹ Xuân An đã có: 618 người đi bộ đội, 914 lượt người đi dân công hoả tuyến, 58 người đi thanh niên xung  phong, 35 người đi xe thồ vận chuyển hàng trên đường Hồ Chí Minh, 22 cán bộ đảng viên điều động cho cơ quan nhà nước cấp huyện, tỉnh và hơn 100  người bổ sung cho ngành giao thông và xí nghiệp công nghiệp địa phương của tỉnh.
          Nhiều gia đình trong xã có 2,3 con ra tiền tuyến, có gia didnfh cả vợ, chồng cha và con đều có mặt ở chiến trường, tỷ lệ đão ngũ ở Xuân An vào loại thấp nhất huyện Nghi Xuân ( 0,2%)
          Song điều chưa có kết quả cao là phong trào tòng quân nhập ngũ trong bà con giáo dân kém sôi nổi so với thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
          Phát huy truyền thống quê hương, con em Xuân An ra tiền tuyến, có mặt trên cả ba chiến trường ở Đông Dương trong những năm đánh Mỹ đã vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, lập nhiều chiến công vẻ vang, hơn 100 người trở thành cán bộ quân đội các cấp, có hơn 20 sỹ quan trung cao cấp của quân đội, nhiều người đã lập công xuất sắc, tiêu biểu là 91 đồng chí liệt sỹ và 208 thương bình  đã góp phần  xương máu và cống hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp thống nhất tổ quốc.
          Nhận thức rõ hậu phương là nhân tố quyết định cho chiến trường chiến thắng. Vì vậy việc chăm lo công tác chính sách đối với những thân nhân và gia đình liệt sỹ, thương bệnh binh, gia đình bộ đội, gia đình anh chị em  dân công hoả tuyến và thanh niên xung phong được đảng bộ và nhân dân chấp hành đầy đủ và kịp thời với cả tấm lòng  đền ơn đáp nghĩa.
          Ngoài việc chỉ đạo ban chính sách xã chi trả cho gần 200 đối tượng đi B, đi C và các anh chị em thương binh có mặt tại địa phương đảm bảo đúng ngày, tận tay, đủ số theo quy định của Nhà nước, đảng uỷ chính quyền xã chỉ đạo các ban quản lý hợp tác xã nông, ngư vận tải thuỷ trong xã điều hoà lương thực cho các thân nhân liệt sỹ thương binh bộ đội đảm bảo 13 kg gạo trong tháng. Ngoài ra ban chỉ huy xã đội, chi đoàn thanh niên và hội phụ nữ còn tổ chức lao động tập thể giúp các gia đình chính sách có đủ hầm hào, lán luỹ ở gia đình và nơi sơ tán. Xã ưu tiên cấp vật liệu hoặc sữa chữa nhà cửa cho các đối tượng chính sách sau mỗi lần địch đánh phá vào thôn xóm. Việc chữa bệnh, học hành của thân nhân  và con em các đối tượng ưu đãi được trạm xá và trường học quan tâm thường xuyên. Đặc biệt hội phụ nữ xã chỉ đạo xây dựng phong trào " người vợ bộ đội chung thuỷ đảm đang" hoạt động có nề nếp, đưa lại kết quả tốt đẹp góp  phần làm an tâm  con em ở mặt trận.
          Từ cấp uỷ đến các đoàn thể quần chúng trong những năm chống Mỹ đều hết sức quan tâm giáo dục truyền thống, tạo điều kiện công tác, thử thách để vợ con các gia đình thương binh, liệt sỹ, bộ đội không ngừng tiến bộ. Hơn 50 chị em vợ bộ đội, vợt liệt sỹ, vợ thương binh đã được kết nạp đảng, được đào tạo thành cốt cán từ đội sản xuất trở lên, nhiều con liệt sỹ được cử đi học đại học, trung học trong nước và ngoài nước trong những năm 1965 - 1975.
          Phong trào toàn dân chăm sóc gia đình chính sách trong những năm trực tiếp chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ của Đảng bộ và nhân dân Xuân An được duy trì, có nề nếp và liên tục, trở thành một trong những xã tiêu biểu của huyện, góp phần quan trọng trong công tác chi viện chiến trường.
          Là một xã đất đai bạc màu, thường xuyên bị hạn hán, bão lụt tàn phá, thuỷ lợi  chưa có công trình, chủ yếu dựa vào thiên nhiên để trồng trọt nên năng suất nông nghiệp thấp, bình quân cả xã chỉ giao động 1 sào ruộng 100kg thóc mức ăn chia phân phối cho xã viên mỗi tháng chỉ đạt xấp xỉ 10kg thóc 1 người. Trong điều kiện địch lại đánh phá ác liệt nhưng nhân dân Xuân An đã giành mỗi năm từ 30 đến 40 tấn thóc làm nghĩa vụ lương thực với nhà nước và 18 - 20 tấn thịt lợn hơi và 12 tấn cá sông làm nghãi vụ thực phẩm. Ngoài ra bà con nông dân còn tự giác bán cho nhà nước hàng trăm kg gà, hàng tấn rau quả cho cửa hàng thực phẩm huyện để cung cấp cho các đơn vị bộ đội đóng quân trong xã.
          4. Tổ chức đời sống và sản xuất thời chiến, làm tốt công tác trật tự trị an, chăm lo sức khoẻ và học hành của toàn dân.
          Từ đầu 1965 cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng ( 30/4/1975) phong trào thi đua 2 giỏi, sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi trở thành nếp sống hàng ngày của toàn đảng bộ và nhân dân .
          Trên mặt trận sản xuất  trong điều kiện bị địch đánh phá ác liệt cả ngày và đêm, cả bằng bom trên trời ném xuống và đạn pháo tấm xa có loại 203 ly đến 406 ly của tàu chiến từ ngoài biến bắn vào nên mọi công việc lao động trên đồng ruộng cũng như trong vườn nhà mỗi người dân Xuân An đều thực hiện quân sự hoá trong sản xuất như:
          - Đào hầm trên đường ra đồng và trên đồng ruộng.
          - Tổ chức chòi phòng không, phòng pháo báo động cho dân biết mỗi khí có máy bay và tàu chiến đánh phá.
          - Lực lượng dân quân được trang bị vũ khí bộ binh thực hiện tay cày tay súng. Có địch là tổ chức từng tổ bắn máy bay ngay trên đồng ruộng.
          - ở các cánh đồng gần các điểm địch thường xuyên đánh phá tổ chức lực lượng  thanh niên và dân quân lập đội xung kích, lao động cả ngày và ban đêm, tranh thủ từng giờ  giữa 2 lần địch đánh phá.
          Những tháng địch đánh tập trung có tính huỷ diệt vào làng xóm  các hợp tác xã tổ chức sơ tán triệt để ông già, bà lão, cháu nhỏ và tài sản vào chân núi  Hồng Lĩnh. Tổ chức lực lượng trẻ khoẻ ở lại thôn xóm bám làng, bám ruộng để vừa sản xuất vừa chiến đấu, phục vụ giao thông vận tải.
          Tuy gặp muôn vàn trở ngại song công tác bổ túc văn hoá cho người lớn, học hành cho con trẻ với gần 1000 học sinh  của trường cấp 1, cấp 2 sơ tán vào núi vẫn được duy trì và an toàn tuyệt đối trong học tập. Phong trào đội mũ rơm ra đồng, đi học được toàn dân hưởng ứng, mỗi hợp tác xã duy trì hoạt động của đội văn nghệ nghiệp dư làm nòng cốt cho phong trào tiếng hát át tiếng bom.
          Bất kỳ cuộc sinh hoạt ở đội sản xuất đến hội nghị toàn xã lúc nào cũng rộn ràng lời ca tiếng hát cỗ vũ tinh thần, động viên mọi người thi đua hai giỏi.
          Hoạt động của màng lưới công an rải đều ở 10 xóm trong các đội sản xuất của các hợp tác xã đã bám sát từng gia đình vận động và tổ chức phong trào toàn dân làm công tác giữ gìn trật tự an toàn, chống các tệ nạn ăn cắp tài sản nhà nước và nhân dân, phản kích kịp thời  mọi luận điệu xuyên tạc của địch. Ban công an xã được củng cố về tổ chức. Đồng chí trưởng Công an là thường vụ cấp uỷ, uỷ viên uỷ ban xã, có chân phó ban trong các tổ chức: Phòng không nhân dân, tác chiến trị an, bảo đảm giao thông, chi viện tiền tuýen. Toàn xã lúc cao nhất có 30 cán bộ nhân viên công an, hầu hết là đảng viên trẻ, cốt cán các đoàn thể, được bồi dưỡng về nghiệp vụ  đã có nhiều công sức trong việc hướng dẫn, tổ chức thực hiện công tác giữ gìn trật tự, an toàn xã hội thời chiến, liên tục trong các năm từ 1967 về sau ban công an xã đều được công nhận là đơn vị quyết thắng.
          Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ trị an được phát động và duy trì có nề nếp trong cả 2 lần chiến tranh phá hoại. Toàn xã có 49 tổ bảo vệ  ở các đội sản xuất thu hút hơn 200 đội viên. Các hợp tác xã đều có nội quy gồm 6 nội dung trong công tác  bảo vệ sản xuất, tài sản và trị an nông thôn, hơn 80% số hộ xã viên đã đăng ký và thực hiện tốt các nội quy đó.
          Nhiệm vụ tham gia bảo vệ các mục tiêu quân sự, giao thông, các đoàn cán bộ cao cấp ra bắc vào nam qua địa bàn xã và việc giám sát, quản thúc các đối tượng xấu có tiền án tiền sự được thực hiện chặt chẽ có hiệu quả cao. Đã thực hiện quản chế 01 đối tượng và trấn áp bắt đi cải tạo 02 đối tượng có nhiều hoạt động xấu, gây hoang mang trong dân và đã kích đường lối chính sách của đảng, chính phủ, xuyên tạc sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ cứu nước.
          Ban công an xã đã tổ chức tốt việc toàn dân tự giác thu hồi và thiêu huỷ 12 lần máy bay thả truyền đơn và bạc ngân hàng giả xuống địa bàn xã.
          5. Khẩn trương khắc phục hậu quả của 2 lần chiến tranh phá hoại, tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, ổn định đời sống nhân dân và chi viện cao nhất cho tiền tuyến.
          Trong những năm chống Mỹ cứu nước ( 1965 - 1975) cũng như các địa phương khác trong huyện và tỉnh, Xuân An có 2 giai đoạn tạm thời địch ngừng đánh  phá là: 11/1968 đến tháng 3/1972 và 2/1973 đến tháng 4/1975. Đây là những năm tháng nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân là nhiệm vụ hàng đầu, đồng thời thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh thắng địch trong mọi tình huống của chiến tranh, chi viện cao nhất, kịp thời nhất cho cách mạng miền Nam và Lào.
          Trong nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh vai trò dân quân và thanh niên là lực lượng nòng cốt xung kích. Các đơn vị công binh dân quân được giao nhiệm vụ rà phá bom nổ chậm, bom từ trường  và thuỷ lôi Mỹ trên đồng ruộng, dưới lòng sông, ven cầu, đường, bến phà trong làng ngoài xóm và tổ chức lấp hố bom khai hoang, phục hoá hàng chục ha ruộng đất bom đạn Mỹ đào xới.
          Dân quân và thanh niên còn đảm nhiệm việc hỗ trợ làm lại gần 1000 ngôi nhà dân bị cháy, bị sập trong 2 lần địch đánh vào xã.
          Từ vụ đông xuân 1968 - 1969 các hợp tác xã ở  Xuân An bước đầu đem thí điểm một số giống cây, gống con mới vào sản xuất và chăn nuôi như lúa bào thai vụ mùa, lợn lai kinh tế. Từ 1969 về sau phong trào áp dụng kỷ thuật thâm canh, cấy lúa nhiều diện tích giống mới, tổ chức chăn nuôi lợn tập thể ở các hợp tác xã bước đầu được thực hiện , phong trào làm bèo hoa dâu, phân xanh, cải tiến nông cụ, phát triển xe cải tiến, làm giao thông trên đồng ruộng để giải phóng đôi vai, tăng năng xuất lao động đã đem lại hiệu quả  kinh tế thiết thực.
          Đời sống nhân dân về nơi ăn chốn ở, việc học hành của con em tuy còn tạm bợ, chủ yếu là tranh tre, mái rạ, mái tro,song nhìn chung đã đi vào ổn định. Các hợp tác xã dần dần  khôi phục  được cơ bản diện tích  hoang hoá do bom đạn địch cày xới, nên thu nhập mỗi vụ đều tăng hơn những năm địch đánh phá.
          Trong lúc nhân dân ta đang dồn sức hàn gắn vết thương chiến tranh ở miền Bắc và chi viện cao nhất cho quân dân miền Nam đang đánh bại từng bước chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh thì ngày 02/9/1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời để lại tổn thương vô cùng to lớn cho toàn đảng, toàn dân tộc.
          Cùng với đồng bào và chiến sỹ cả nước, đảng bộ và nhân dân Xuân An biến đau thương thành hành động cách mạng, tiến quân sôi nổi thực hiện các nhiệm vụ của phong trào thi đua  " làm theo di chúc Bác Hồ vĩ đại".
          Phong trào thi đua làm theo di chúc Bác Hồ đã sớm trở thành cao trào cách mạng ở Xuân An trong suốt những năm 1970, 1971 đã tạo nên những kết quả to lớn và toàn diện.
          - Khôi phục 42 ha ruộng đất bị bom đạn Mỹ  cày xới, rà phá 120 bom từ trường , 21 thuỷ lôi, đào đắp  2500m3 đất đá lấp hố bom, sửa chữa đường giao thông.
          - Hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu tuyển quân, huy động dân công hoả tuyến, nghĩa vụ lương thực, thực phẩm huyện giao.
          - Sửa chữa và làm mới trên 1200 ngôi nhà dân, trụ sở, trường học, cửa hàng, trạm xá, nhà kho.
          - Lực lượng dân quân và công an được củng cố, tăng thêm số lượng, chiếm 10% dân số, chất lượng chính trị đảm bảo. Duy trì chế độ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Thực hiện trực chỉ huy, trực đánh máy bay có nề nếp.
          - Thu nhập của các hợp tác xã nông nghiệp và ngư nghiệp tính đến 1971 đã bằng năm 1965 cả về sản lượng, làm nghĩa vụ với nhà nước và mức ăn chia phân phối cho xã viên.
          Nhờ những thành tựu đó nên tiềm lực kinh tế và quốc phòng của Xuân An đầu 1972 đã ở trong thế đi lên. Đây là một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo cho đảng bộ và quân dân Xuân An bước vào chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ với thế chủ động, vững vàng cả về tư tưởng, tổ chức.
          Chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ chỉ diễn ra trên đất Xuân An trong vòng 9 tháng ( 4/1972 - 01/1973) song sự tàn phá của bom đạn Mỹ lớn hơn thời kỳ chiến tranh phá hoại lần thứ nhất vì:
          - Thủ đoạn đánh phá xảo quyệt, ồ ạt và có tính huỷ diệt ngay từ đầu.
          - Sử dụng B52 hai lần rải thảm vào làng xóm, khu sơ tán của dân và chân hàng của nhà nước ở ven núi Hồng Lĩnh.
          Dưới ánh sáng của Nghị quyết 19, 20, 21 của Trung ương Đảng, được sự chỉ đạo, giúp đỡ của tỉnh và huyện từ tháng 02/1973 Đảng bộ và nhân dân Xuân An lại lần thứ 2 tiến quân vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh khôi phục phát triển kinh tế, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chi viện cao nhất, kịp thời nhất cho tiền tuyến lớn miền Nam.
          Sau hiệp định Pari ( 28/01/1973) cục diện chiến tranh có nhiều thuận lợi to lớn cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom miền Bắc, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam.
          Đảng bộ và nhân dân Xuân An ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh phá hoại lần thứ 2 khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chi viện cao nhât, kịp thời nhất cho miền Nam và Lào.
          Sau một năm cố gắng vượt bậc đến đầu 1973 việc khắc phục hậu quả chiến tranh đã thu được kết quả khả quan, hơn 20 ha ruộng ven đường quốc lộ, tỉnh lộ  và khu vực Da Lách - phà Bến thuỷ được phá hết bom đạn. Anh chị em dân quân  đã rà phá 76 bom từ trường, nổ chậm trong làng, ngoài đường, bến sông đảm bảo an toàn cho nhân dân. Hơn 900 hộ dân nhà cửa bị hỏng, hư hại được sửa chữa có nơi ăn chốn nghỉ tương đối. Cơ sở vật chất như: trường học, trụ sở, nhà kho, trạm xá được xây dựng lại ở nơi thuận lợi. Mọi hoạt động của nhân dân đã chuyển hẵn sang thời bình.
          Giữa năm 1973, các hợp tác xã nông nghiệp được hợp nhất thành quy mô thôn. Từ 6 hợp tác xã trong chiến tranh nảy thành 3 hợp tác xã mới là.
          - Hợp tác xã Thượng Lộc gồm 227 hộ, 407 lao động chính, 156 ha ruộng đất.
          - Hợp tác xã An Hoà gồm 165 hộ, 289 lao động chính, 165 ha ruộng đất.
          - Hợp tác xã Hồng Xuân gồm 178 hộ, 302 lao động chính, 132 ha ruộng đất.
          Việc hợp nhất hợp tác xã nhỏ thành hợp tác xã quy mô thôn nhìn chung phù hợp với năng lực cán bộ và xu thế chung của tình hình, sớm phát huy tác dụng sản lượng thóc, màu, mức ăn chia phân phối  cho xã viên và làm nghĩa vụ với Nhà nước  trong hai năm  1974 - 1975 tăng hơn 1973. Năm 1975 là năm Xuân An làm nghĩa vụ lương thực  đạt 42 tấn vượt chỉ tiêu huyện giao 2 tấn 500kg. Nhờ sản xuất phát triển, chăn nuôi có nhiều khởi sắc. Đàn lợn tập thể và trâu bò của các  hợp tác xã tăng 10% so với thời kỳ  1972 - 1973. Riêng gia cầm trong dân phát triển nhanh. Nghành nghề phụ trong dân được khối phục như đốt vôi, nung gạch, thợ xây dựng và rèn, cơ khí, dịch vụ.
          Công tác an ninh, quốc phòng  được chăm lo và làm tốt các chủ trương của cấp trên. Lực lượng dân quân và du kích được đảm bảo 10%  tổng dân số toàn xã. Việc huấn luyện được tổ chức mỗi năm hai đợt gắn với các công tác thuỷ lợi, giao thông.
          Tuy không phải trực tiếp đánh máy bay, song lực lượng dân quân vẫn được củng cố và sẵn sàng chiến đấu cao theo phương án tác chiến phòng thủ bảo vệ địa phương và cơ động lực lượng chi viện chiến trường trong mọi tình huống địch đổ bộ đường biển, tập kích bằng đường không, gây bạo loạn…
          Trong nhiệm vụ xây dựng lực lượng dự bị động viên Xuân An sẵn sàng quân số 01 đại đội bộ binh, tổ chức 1B cơ động có trang bị súng 12 ly 7 thành lực lượng tác chiến tại chỗ  và phối hợp với các xã bạn thành cụm chiến đấu bảo vệ yếu địa Da Lách, Bến thuỷ.
          Từ 1973 đến 4/1975 công tác tuyển quân và huy động dân công hoả tuyến diễn ra liên tục, mỗi năm 2 đợt. Riêng 3 tháng đầu năm 1975  huyện giao chỉ tiêu bằng cả năm 1974 là 63 tân binh nhưng Xuân An đã điều động 73 người vượt 13%. Tính chung chỉ trong hơn 2 năm ( 02/1973 đến 4/1975) Xuân An đã cử con em ra tiền tuyến nhiều hơn tổng số thời kỳ chống Pháp ( 1946 – 1954 ).
          Cùng với miền Bắc, trong cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975 của miền Nam, Xuân An đã dốc mọi khả năng và nguồn lực  về người và lương thực, thực phẩm kịp thời đáp ứng mọi chỉ tiêu của huyện giao. Ngoài ra XuânAn còn tổ chức chu đáo hai công tác đột xuất là:
          - Lập các điểm tiếp tế nước chè xanh và quà bánh của nhân dân trong xã tự đóng góp để uỷ lạo các đơn vị hành quân qua phà Bến thuỷ vào chiến đấu ở miền Nam.
          - Đón tiếp hàng trăm lượt anh chị em thương binh nặng nghỉ lại địa phương trên đường ra các tỉnh miền Bắc điều trị, điều dưỡng.
          Ngày 10/8/1973 trong chuyến công tác vào thăm các tỉnh Quân khu 4 đồng chí Lê Duẫn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng giành thời gian gặp gỡ thân mật với hơn 200 cán bộ chủ chốt của các xã trong huyện Nghi Xuân tại nhà kho đội 1 hợp tác xã Thượng Lộc Xuân An. Những lời thăm hỏi ân cần và những điều căn dặn  của đồng chí Lê Duẫn trong buổi gặp mặt lịch sử ấy đã tiếp thêm sức mạnh và khí thế thi đua sản xuất giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao cho quân dân Xuân An.
          Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng, miền Nam được hoàn thoàn giải phóng, trong cả 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn  sáng 30/4/1975 đã có mặt nhiều con em của Xuân An.
          Đảng, chính phủ đã ghi công và đánh giá cao công sức của đảng bộ và nhân dân Xuân An trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước nên đã tặng cho Xuân an danh hiệu đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang và hơn 1500 huy, huân chương chiến công, kháng chiến các hạng cho cá nhân  và các gia đình trong xã đã có  công lao thành tích trong sự nghiệp, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế với các bạn nước Lào, Cămphuchia.
          6. Chăm lo công tác xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể.
          a. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng chi bộ đảng bộ 4 tốt.
          Mặc dù bị đế quốc Mỹ đánh phá ngày càng ác liệt trong cả 2 lần chiến tranh phá hoại nhưng đảng bộ Xuân An đã vận dụng các nội dung của cuộc vận động xây dựng đảng chi bộ 4 tốt được triển khai đồng bộ  thiết thực  có tác dụng không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ, làm cho đảng bộ lớn mạnh, trưởng thành, vững vàng trong mọi thử thách.
          Kết quả của việc thực hiện cuộc vận động đã làm cho đảng bộ vững mạnh cả ba mặt. Tư tưởng, tổ chức và kiểm tra.
          Công tác tư tưởng đã tiến hành thường xuyên linh hoạt và thiết thực nhằm tạo nên sự nhất trí về mặt nhận thức âm mưu bản chất hiếu chiến xâm lược của đế quốc Mỹ, quán triệt nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả là nghĩa vụ thiêng liêng của toàn đảng toàn dân, trên cơ sở xây dựng ý chí chiến đấu, sẵn sàng chịu đựng hy sinh tổn thất, khắc phục mọi biểu hiện  giao động ngại gian khổ hy sinh, giảm sút ý chí chiến đấu. Đặc biệt công tác tư tưởng đã làm cho mỗi cán bộ đảng viên xác định được vai trò tiên phong gương mẫu trong mọi phong trào của nhân dân, thực hiện tốt khẩu hiệu " đảng viên đi trước làng nước làm theo".
          Qua thử thách trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu phòng không nhân dân cho đến trên mặt trận đảm bảo giao thông vận tải, tòng quân, đi dân công hoả tuyến và bám dân, bám đất tổ chức sản xuất giỏi tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng viên Xuân An, đặc biệt là các đồng chí chủ trì trong cấp uỷ, chính quyền, các tổ chức quần chúng  và trong dân quân, công an… đều là những tấm gương, dám xã thân, chịu đựng mọi hy sinh, thử thách.
          Về công tác tổ chức  ngoài việc duy trì sinh hoạt chặt chẽ, chấp hành điều lệ  đảng nghiêm túc, giữ vững sự đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật cao và nguyên tắc dân chủ tập trung, tự phê bình, phê bình tốt .
          Trong công tác phát triển đảng viên đảng bộ Xuân An đã có nhiều kết quả khá toàn diện cả về số lượng, chất lượng. Trong thời kỳ chống Mỹ  cứu nước đã kết nạp  mới 56 đảng viên trong đó có 22 nữ, 75% là đoàn viên, trình độ văn hoá phổ biến là tốt nghiệp cấp 1, cấp 2.
          Có được sự tiến bộ mới trong công tác phát triển đảng, các chi bộ đã biết chọn lọc các những người ưu tú, được thử thách  trong các đoàn thể thanh niên, phụ nữ và lực lượng dân quân, công an viên.
          Vì vậy trên 95% đảng viên mới đều hoàn thành tốt nhiệm vụ, có 22 đồng chí đã  trưởng thành cán bộ, cốt cán từ đội sản xuất, hợp tác xã, các đoàn thể, 12 đồng chí bổ sung cho quân đội đều trưởng thành, được đề bạt cán bộ trung sơ cấp trong các đơn vị ở chiến trường.
          Việc bình xét chi bộ, đảng viên 4 tốt được tiến hành chặt chẽ, định kỳ theo hướng dẫn của cấp trên, kết quả năm sau cao hơn năm trước.
          - Năm 1965 có 68% đảng viên và 3/6 chi bộ đạt 4 tốt.
          - Năm 1968 có 76,5 đảng viên và 4/6 chi bộ đạt 4 tốt.
          - Năm 1974 có 84,7 đảng viên và 5/6 chi bộ đạt 4 tốt.
          -  Năm 1972 đồng chí Bí thư tỉnh uỷ Nguyễn Tiến Chương đã về chi bộ An thượng do đồng chí Cao Lâm làm bí thư, kiểm tra đánh giá chất lượng chi bộ 4 tốt ở Xuân an đã có nhận xét "An thượng là  chi bộ kiên cường bám đất, bám dân hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xứng đáng là  chi bộ 4 tốt tiêu biểu”.
          Trong những năm chống Mỹ cứu nước công tác kiểm tra đảng ở Xuân An đã có 3 đợt làm tập trung và kiên quyết đúng theo chỉ thị, nghị quyết của tỉnh uỷ và trung ương đảng cụ thể là:
          - Từ tháng 7 - 10/ 1965 thực hiện thông tri số 15 của thường vụ tỉnh uỷ Hà Tĩnh về việc kiên quyết xử lý kỷ luật  những cán bộ đảng viên giảm sút ý chí, thiếu trách nhiệm không hoàn thành nhiệm vụ.
          - Từ tháng 6 - 10/1968 thực hiện Chỉ thị 37 của thường vụ tỉnh uỷ Hà Tĩnh về việc đưa ra khỏi đảng và thay thế ngay chức vụ của những đảng viên, cán bộ chạy dài, thoái thác nhiệm vụ, giao động sợ hy sinh, ác liệt.
          - Và trong 2 năm 1972 - 1973 triển khai thực hiện Chỉ thị 192 và thông tư 195 của Ban bí thư Trung ương đảng về việc làm trong sạch nội bộ Đảng, kịp thời  đưa ra khỏi đảng những người không đủ tư cách, lịch sử chính trị không rõ ràng nhằm làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
          Trong ba đợt  sinh hoạt chính trị lớn ấy đều được đảng bộ tiến hành khẩn trương, nghiêm túc, thận trọng, kiên quyết đã đưa ra khỏi đảng 26 đảng viên và xử lý các hình thức kỷ luật 18 đồng chí.
          Tuy Đảng bộ có sự giảm sút về số lượng song nhờ thực hiện tốt các chủ trương trên của tỉnh và Trung ương nên chất lượng và sức chiến đấu của đảng viên và các chi bộ, bộ được nâng cao.
          Cuộc vận động xây dựng chi bộ đảng bộ 4 tốt thực sự là một trường học lớn nhằm giáo dục và rèn luyện đảng viên vững vàng trong thử thách, đủ sức gánh vác  vai trò  lãnh đạo toàn dân chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi trong những năm chống Mỹ cứu nước.
          b. Xây dựng chính quyền và các đoàn thể quần chúng.
          Do hoàn cảnh chiến tranh nên việc bầu cử hội đồng nhân dân xã không có điều kiện duy trì như luật định. Song hội đồng nhân dân xã vẫn hoạt động tuy chất lượng chưa cao. Những uỷ viên hội đồng ốm đau, hy sinh hoặc tòng quân đã kịp thời bổ sung người thay thế, số lượng 19 hội viên HĐND xã trong chiến tranh vẫn giữ  nguyên.
          Gắn việc củng cố chính quyền xã với các kỳ đại hội đảng bộ nên về mặt nhân sự và cơ cấu uỷ ban nhân dân xã được kiện toàn, thường xuyên theo nhiệm kỳ của đảng uỷ - Ngoài chủ tịch, 02 phó chủ tịch và xã đội trưởng , trưởng công an là đảng uỷ viên thì số uỷ viên uỷ ban xã đều là đảng viên và có chân trong hội đồng nhân dân. Đặc biệt từ 1965 đến 1975 là thời kỳ vai trò cán bộ nữ không chỉ trong các cấp bộ đảng mà trong chính quyền và các đoàn thể cấp xã, hợp tác xã được chú ý đúng mức. Đồng chí Phó chủ tịch phụ trách tài mậu là nữ, đội phó, phó chủ nhiệm các hợp tác xã đều có bố trí cán bộ nữ phụ trách.
          Trong công tác của chính quyền xã những năm chiến tranh ác liệt đã xây dựng được tác phong và nề nếp công tác giữ vững sự đoàn kết nhất trí  trong đội ngũ cốt cán, vai trò gương mẫu đi đầu của đồng chí Chủ tịch xã và mối quan hệ tốt đẹp với nhân dân, được dân mến, dân tin và luôn bám sát dân để thuyết phục, vận động, biết dựa vào dân nên . " Khó vạn  lần dân liệu cũng xong".
          Các đoàn thể quần chúng, đặc biệt và thanh niên phụ nữ trong thời kỳ chống Mỹ đã thường xuyên được đảng bộ, chính quyền chăm lo xây dựng đã có sự trưởng thành và phát triển.
          Đoàn thanh niên lao động được củng cố về mặt tổ chức thu hút 320 đoàn viên, thực sự là lực lượng xung kích trên mọi công tác. Phong trào ba sẵn sàng đã thu hút hàng trăm đoàn viên và thanh niên hăng hái tòng quân đi thanh niên xung phong và dân công hoả tuyến. Trong số hơn 1500 người ra trận của Xuân An trong thời kỳ 1965 - 1975 có hơn 70% là đoàn viên và thanh niên. Số anh em ở lại địa phương hầu hết là những đội viên đánh máy bay, rà phá bom từ trường, thuỷ lôi Mỹ.
          Hội phụ nữ Xuân An với hơn 700 cán bộ hội viên là một tổ chức vững mạnh, có số lượng đông đảo nhất trong các tổ chức ở địa phương. Qua thử thách, rèn luyện trong phong trào 3 đảm đang,  phụ nữ thực sự là những người trung hậu, bất khuất, có mặt trên mọi trận tuyến, đảm đang việc nhà, việc nước, thay thế chồng con ra mặt trận, nhận mọi công tác xã hội đều làm chu đáo, tận tâm.
          Qua trực tiếp đối mặt với bom đạn tàn bạo của Mỹ  cả 2 lần chiến tranh phá hoại, phụ nữ Xuân An tổ rõ khả năng vô tận, lòng dũng cảm phi thường, sự mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu và sản xuất và tiêu biểu  là nữ dân quân Bùi Thị Ái  bằng chiếc liềm chấu cắt cở đã bắt sống giặc lái Mỹ, là nữ dũng sỹ công binh dân quân Nguyễn Thị Hồng, Đậu Thị An đã phá hàng chục bom từ trường.
          - Phong trào thi đua hai giỏi của toàn dân phát triển ngày càng rầm rộ và thu hút mọi tầng lớp nhân dân. Đại hội 2 giỏi của xã đầu 1969 đã bình xét được 540 chiến sỹ hai giỏi trong đó 15 đại biểu đi dự đại hội 2 giỏi của huyện là những bông hoa đẹp tiêu biểu cho vườn hoa  2 giỏi của Xuân An ( chiến sỹ thi đua Trần Bày là một điển hình).
          - 1965 - 1975 mười năm đầy thử thách cam go của đảng bộ và nhân dân Xuân An. Mặc dù phải chịu đựng hy sinh và tổn thất vô cùng nặng nề người và tài sản, nhưng đảng bộ và nhân dân đã tỏ rõ khí phách anh hùng vừa chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, chi viện kịp thời  người và của cho các chiến trường, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chống Mỹ cứư nước bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc, đã trực tiếp đánh thắng hai lần chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ là những trang sử hào hùng, vẻ vang nhất trong lịch sử chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương, đất nước của đảng bộ và nhân dân Xuân An.
 

CHƯƠNG V.
ĐẢNG BỘ XUÂN AN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ 
TỔ QUỐC THEO ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG ( 1975 - 2005)
––––––––––––––

A. KHẮC PHỤ HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ CỦA ĐẢNG TRONG NÔNG NGHIỆP ( 1975 - 1985).

          Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng ( 30/4/1975) mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta nước nhà thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
          Đầu 1976 hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp nhất thành tỉnh Nghệ Tĩnh, một tỉnh đất rộng, người đông vào lại bậc nhất của cả nước. Xuân An từ một xã địa đầu của Hà Tĩnh nay trở thành xã phụ cận phía nam của thành phố Vinh trung tâm chính trị văn hoá, kinh tế xã hội của Nghệ Tĩnh.
          Tháng 12/1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 4 của Đảng thành công tốt đẹp, cùng với việc đổi tên đảng thành Đảng  Cộng sản Việt Nam, Đại hội đã thông qua kế hoạch nhà nước  năm năm lần thứ 2 ( 1976 - 1980) nhằm xây dựng cơ sở vật chất bước đầu cho chủ nghĩa xã hội.
          - 1975 - 1985 chặng đường 10 năm sau kết thúc sự nghiệp chống Mỹ cứu nước cách mạng Việt Nam bên cạnh những thuận lợi to lớn, có thế mới, lực mới song đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách hiểm nghèo, thiên tai, bão lụt liên tiếp xẩy ra, chiến tranh xâm lược vô cùng tàn bạo của bọn phản động quốc tế gây ra ở biên giới phía Bắc và Tây Nam, sự cấm vận độc ác của đế quốc Mỹ cùng với sự duy trì quá lâu của chế độ quan liêu, bao cấp, duy ý chí trong quản lý  kinh tế đã đẩy đất nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội ngày càng găy gắt, đời sống nhân dân không được cải thiện mà ngày càng khó khăn, nhất là về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng.
          Trong bối cảnh đan xen thuận lợi và khó khăn đầy phức tạp đó của đất nước đảng bộ và nhân dân Xuân An đã cùng đồng bào, chiến sỹ cả nước vững vàng trong thế cách mạng tiến công, lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trong thời kỳ 1976 - 1985.
          I. KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN. 
          Sau ngày hiệp định Pari được ký kết ( 28/1/1973) đến ngày kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh ( 30/4/1975) hơn 2 năm Miền Bắc có hoà bình song phải dồn sức người, sức của chi viện cho miền Nam và cách mạng Lào, đồng thời phải thường xuyên nâng cao cảch giác, sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu đối phó với mọi âm mưu gây lại chiến tranh đối với Miền Bắc, nên công việc khắc phục hậu quả của chiến tranh phá hoại ở Xuân An còn chưa làm được nhiều, đời sống nhân dân từ nơi ăn, chốn ở, học hành, làm việc nói chung còn tạm bợ, chưa được thực sự ổn định lâu dài.
          Vì vậy, đại hội Đảng bộ Xuân An tháng 10/1975 đã đề ra ba nhiệm vụ trọng tâm trước mắt " Hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục  và phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân". Đại hội đã bầu ra ban chấp hành Đảng uỷ mới. Các đồng chí bí thư, chủ tịch xã đội trưởng trong chiến tranh được Đảng bộ tín nhiệm cử vào các chức danh cũ tiếp tục là trụ cột của địa phương trong thời bình.
          1. Hàn gắn vết thương chiến tranh. 
          Với sự nổ lực của toàn dân, lấy lực lượng dân quân và thanh niên làm nòng cốt trong công tác rà phá bom đạn địch còn tồn đọng sau chiến tranh, sử dụng các đội chuyên trong hợp tác xã và huy động sức của xã viên trong công tác lấp hố bom, cải tạo mặt bằng, phục hoá những nơi bị bom đạn Mỹ cày xới, đồng thời vận động toàn dân  tương trợ, giúp nhau trong xây dựng lại nhà cửa, vườn tược, chuồng trại… Đến cuối năm 1976 Xuân An đã đạt được những thành tích khá toàn diện trong công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, cụ thể là:
          - Hơn 1000 hộ với trên 4000 nhân khẩu trong xã đã trở về vườn cũ, dựng lại nhà ở, làm lại chuồng trại chăn nuôi, trồng lại cây lâu năm, hoa quả trong vườn. Trong đó nhân dân  đã góp công sức giúp các gia đình liệt sỹ, thương binh và người già cả neo đơn có nơi nghỉ ngơi ổn định thể hiện sâu sắc tình làng, nghĩa nước ăn quả nhớ người trồng cây.
          - Rà phá trên 100 bom từ trường, nổ chậm, hàng nghìn bom bi của đế quốc Mỹ, san lấp hơn 1000 hố bom, 27 trận địa pháo, hàng ngàn hầm hố trú ẩn, hàng vạn mét hào giao thông và các nơi kho hàng, bãi dấu xe cũ… khôi phục hơn 100 ha diện tích nông nghiệp.
          - Tuy chỉ tranh tre nứa mét là chính nhưng toàn dân đã bỏ ra hàng vạn ngày công và góp tiền bạc cùng chính quyền xã và ban quản lý hợp tác xã nông nghiệp làm mới các trụ sở, nhà kho, sân phơi, cửa hàng mua bán, nơi họp chợ, trạm xá xã và các trường cấp 1, cấp 2.
          - San lấp hố bom khôi phục lại 32 ha vườn, bước đầu trồng cây xanh trong vườn, trên núi, trong làng tạo nên màu xanh của ấm no, hoà bình, phủ kín những tội ác chiến tranh của giặc Mỹ.
          - Bước đầu sửa sang, nâng cấp lại đường sá trong làng, đường làng ra đồng sản xuất. Từ 1976 trở về sau làng xóm ở Xuân An đã trở lại cảnh yên vui, thanh bình, sinh hoạt, sản xuất, học hành… của nhân dân đã đi vào nề nếp.
 
          2. Khôi phục và phát triển sản xuất. 
          Thực hiện nghị quyết của tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh và huyện uỷ Nghi Xuân về chủ trương đưa quy mô hợp tác xã lên toàn xã, năm 1976 ba hợp tác xã nông nghiệp ở Xuân An được hợp nhất thành hợp tác xã Hồng Giang với trên 500  ha diện tích canh tác, 730 hộ xã viên và 3984 nhân khẩu. Ngoài các đội sản xuất cơ bản theo khu dân cư, hợp tác xã còn lập các đội chuyên như đội 202 làm thuỷ lợi, đội khoa học kỷ thuật, đội chăn nuôi tập thể, ngành nghề khai thác Đá, đan lát, rèn, mộc…
          Bên cạnh thế mạnh của quy mô toàn xã, hợp tác xã Hồng Giang những năm đầu ( 1976, 1977) đã phát huy được tác dụng trên một số mặt như: khai hoang, phục hoá, mở diện tích gieo trồng, làm thuỷ lợi. Bước đầu đưa giống mới 314 và 424 vào vụ đông xuân, giống bao thai vào vụ mùa, mở rộng diện tích khoai lang, lạc vừng, đậu, trồng kê, nhờ đó tổng sản lượng  thực quy thóc  tăng so với 1975 gần 80 tấn, lương thực bình quân cho xã viên xấp xỉ  160 kg quy thóc trong năm 1977, làm nghĩa vụ lương thực đạt 32 tấn và 10, 5 tấn thực phẩm. Nhưng do quy mô toàn xã quá rộng, trình độ cán bộ yếu kém, nạn rong công phóng điểm  trở thành lực cản làm cho sản xuất chững lại, thiên tai lũ lụt liên tiếp diễn ra từ 1978 về sau nên tình hình sản xuất và đời sống xã viên ngày càng khó khăn. Các năm 1978, 1979, 1980 mức ăn chia phân phối  ngày càng giảm, ngày công lao động có năm chỉ đạt 200 g thóc, lương thực đầu người năm 1980 chỉ đạt 110 kg quy thóc. Nạn đói giáp hạt  quay trở lại đời sống nông dân gặp khó khăn.
          Trong thời kỳ 1975 - 1985 cùng với hợp tác xã nông nghiệp Hồng Giang ở Xuân An còn có hợp tác xã thủ công vận tải gồm 43 hộ và 219 khẩu. Hoạt động của hợp tác xã thủ công, vận tải hàng năm đều đạt và vượt kế  hoạch đề ra, có năm như 2 năm 1977 và 1978 vượt 17% chỉ tiêu kế hoạch, nhờ đó đời sống xã viên được cải thiện.
          Sau ngày hợp nhất, tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh điều hành lao động trên quy mô toàn tỉnh để mở hàng loạt công trường thủ công lớn làm thủy lợi, khai hoang phục hoá. Trong các năm 1976, 1977 huyện Nghi Xuân đã thực hiện điều hành lao động quy mô toàn huyện 9 đợt vừa phục vụ các công trường thuỷ lợi lớn của tỉnh như Vách Bắc, Kẽ Gỗ, sông Nghèn vừa làm các công trình lớn  của huyện như trạm bơm và kênh dẫn nước Lam Hồng, cải tạo rào Mỹ Dương, hoàn chỉnh  địa bàn di dân lập xã mới Xuân Lĩnh, Dời dân ven Sông Lam ở Xuân Hồng vào núi Hồng Lĩnh, cải tạo mở rộng diện tích dọc đường 18 từ Xuân An vào Xuân Viênvv…
          Thực hiện chủ trương của huyện, đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã đã giao trách nhiệm cho Ban quản lý hợp tác xã Hồng Giang cử cán bộ chủ trì chỉ huy các đội dân công lên các công trường của tỉnh và huyện, đồng thời đẩy mạnh công tác thủy lợi, giao thông, cải tạo đồng ruộng ở xã nhà. Trong thời gian từ 1976 đến 1979 đã huy động 31.860 ngày công lao động cho các công trường và 21.370 ngày công làm giao thông thuỷ lợi ở địa phương. ( Bình quân một lao động 22 ngày công trong 1 năm )
          Trên các công trường dân công Xuân An luôn là đơn vị vào loại dẫn đầu, vượt định mức chỉ tiêu, có đợt vượt 35% nhờ đó đợt nào cũng rút ngắn được thời gian từ 5 đến 7 ngày.
          Tuy nhiên do duy ý chí không theo đúng quy luật kinh tế, nên việc chủ trương huy động lao động quy mô quá lớn, dài ngày, liên tục hết đợt này sang đợt khác, mọi việc ăn ở, hậu cần đều do hợp tác xã đài thọ dẫn đến dồn khó khăn, cho cơ sở, làm đảo lộn mọi kế hoạch sản xuất của hợp tác xã. Riêng đối với công trường trạm bơm và kênh dẫn nước Lam Hồng của huyện tiêu tốn quá lớn sức người, sức của nhưng hiệu quả kinh tế rất thấp, nước không thể tưới cho các xã khác ngoài 2 xã Xuân Hồng và Xuân Lam
          II. CHĂM LO CÔNG TÁC VĂN HOÁ Y TẾ, GIÁO DỤC. 
          - Công tác văn hoá đã khôi phục lại các đội chèo, đội văn nghệ nghiệp dư, đội bóng đá của xã, việc phổ biến thông tin thời sự, tuyên truyền chính sách, pháp luật được tiến hành tận từng đội sản xuất, phong trào xây dựng nếp sống sạch làng, tốt ruộng, đoàn kêt lương giáo, đoàn kết nội bộ nhân dân được phát động và duy trì có nề nếp. Hưởng thụ văn hoá của nhân dân như xem phim, nghe đài truyền thanh, đọc sách báo được nhiều hơn hẵn trong những năm 1975 về trước.
          - Về sự nghiệp giáo dục đã chăm lo cả ba ngành học là mầm non, phổ thông và bổ túc văn hoá. Đến 1979 đã xoá được nạn học 3 ca, toàn xã bình quân cứ 3  người có 01 người đi học trong hệ thống giáo dục. Riêng trường cấp 1 và cấp 2 đã có trên 1000 học sinh, chế độ thù lao cho các cô nhà trẻ, các lớp mẫu giáo vở lòng được hợp tác xã giải quyết hưỏng mức lương thực loại 1. ( Hưởng công điểm loại A)
          - Phát huy truyền thống chăm lo tốt sức khoẻ cho toàn dân trong thời kỳ chiến tranh, trạm y tế xã từ 1976 về sau đã có nhiều cố gắng, thực hiện tốt việc kết hợp đông tây y và chăm lo tuyên truyền, vận động, tổ chức cho toàn dân làm công tác vệ sinh, phòng dịch, phòng bệnh. Việc làm hố xí 2 ngăn, đào giếng trong vườn, làm nhà tắm, dời chuồng chăn nuôi gia súc xa nhà được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Nhờ đó trong suốt 10 năm 1975 - 1985 không xẩy ra dịch bệnh, sức khoẻ của nhân dân, nhất là bà mẹ, trẻ em được cải thiện ngành y tế, vẫn giữ vững đơn vị tiên tiến của huyện và tỉnh.
            III. LÀM CÔNG TÁC AN NINH QUỐC PHÒNG, CHI VIỆN KỊP THỜI CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI.
          - Là địa bàn phụ cận phía nam thành phố Vinh, Xuân An thường xuyên có đông người qua lại, quan hệ làm ăn, hàng quán, cơ quan, xí nghiệp trongtỉnh và của trung ương  ngày một nhiều chọn Xuân An làm  nơi đóng quân lâu dài. Từ đặc điểm mới ấy công tác giữ gìn trật tự an toàn là nhiệm vụ thường xuyên, ngày càng phức tạp. NGành công an đã kịp thời củng cố lực lượng, có phương án triển khai việc chủ động hiệp đồng với các cơ quan, đơn vị và thành phố Vinh trong công tác bảo vệ chính trị, trật tự xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội và kế hoạch bảo vệ sản xuất, bảo vệ cơ quan xí nghiệp trong xã.
          - Công tác xây dựng dân quân du kích cả về giác ngộ chính trị và nâng cao kỷ thuật chiến thuật quân sự được thực hiện. Tuy số lượng thời bình có giảm song schất lượng vẫn đảm bảo, lực lượng trẻ  và có văn hoá cao hơn trong thời kỳ chiến tranh, thông qua kết hợp lao động sản xuất với huấn luyện quân sự đã có tác dụng tốt đưa dân quân du kích làm nòng cốt trong khai hoang, phục hoá, rà phá bom đạn địch.
          Công tác tuyển quân hàng năm và tổ chức quản lý lực lượng cán bộ, chiến sỹ dự bị động viên được tiến hành khẩn trương, có nề nếp nên khi chiến tranh biên giới ở các tỉnh phía Bắc xẩy ra từ 1979 - 1982 Xuân An đã huy động 230 người bổ sung cho quân đội không một người đào ngũ.
          Chấp hành mệnh lệnh điều động của huyện năm1979 Xuân An đã huy động 100 dân quân  xuống xây dựng công sự chiến đấu ven biển ở Xuân Yên, nhân dân trong xã còn làm 100 bàn chông sắt ủng hộ Xuân Yên  bố trí trên tuyến bảo vệ ven biển chống địch tấn công, tập kích bằng bộ binh.
          Trong 10 năm 1975 - 1985 dân quân và Công an Xuân An đã phát hiện  và ngăn chặn 17 vụ gây rối trật tự trị an xã hội, 7 vụ trộm cắp tài sản nhà nước 15 vụ trộm cắp tài sản công dân, tóm gọn một số tên phản động ở Vinh sang tổ chức đóng thuyền chuẩn bị di tản ra nước ngoài bằng đường biển.
          IV. BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN THÀNH CÔNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG NÔNG NGHIỆP CỦA ĐẢNG. 
          Do duy trì quá lâu cơ chế quan liêu, bao cấp trong quản lý kinh tế xã hội khi đất nước đã thống nhất, chiến tranh đã kết thúc sau 5 năm; mặt khác do chủ trương nóng vội, duy ý chí của Đảng bộ Nghệ Tĩnh trong chủ trương  đưa hợp tác xã nông nghiệp  lên quy mô toàn xã, điều hành lao động quy mô tỉnh mở ra hàng loạt các đại công trường thủ công, dời dân lên đồi theo khuynh hướng chủ quan " Thay trời, đổi đất, sắp đặt lại giang sơn"  Nên dẫn đến hậu quả sản xuất và đời sống của nhân dân ta ngày càng lâm vào cảnh khủng hoảng kinh tế, xã hội trầm trọng, kéo dài. Đặc biệt nạn thiếu lương thực và hàng tiêu dùng ngày càng gay gắt, tiêu cực xã hội ngày càng diễn biến phức tạp.
          Trong bối cảnh chung của đất nước, của Nghệ Tĩnh, Xuân An trong những năm 1975 - 1980 đời sống nhân dân ngày càng sút kém. Điều nghịch lý là diện tích gieo trồng và các biện pháp thâm canh, khoa học kỷ thuật năm sau cao hơn năm trước nhưng sản lượng lương thực lại ngày một giảm sút. Riêng năm 1979 so với 1976 ở hợp tác xã Hồng Giang diện tích gieo trồng tăng hơn 53ha nhưng tổng thu nhập quy thóc  lại giảm 35tấn trong lúc sinh đẻ mức xấp xỉ 3,2%. Nên mức phân phối lương thực cho các khẩu nông nghiệp chỉ còn 7kg  thóc/người trong một tháng giảm so với trong thời kỳ  chống Mỹ cứu nước.
          Giữa lúc tình hình sản xuất và đời sống của nhân dân ta đang bị dồn vào ngõ cụt thì tháng 8. 1979 hội nghị TW lần thứ 6 khoá 4 đã kịp thời đề ra quyết sách " làm cho sản xuất bung ra" và chấp nhận: " nền kinh tế ở nước ta bao gồm nhiều thành phần và kết hợp hài hoà ba lợi ích trong xã hội là lợi ích nhà nước, tập thể và lợi ích người lao động…".
          Tiếp đến Nghị quyết bộ Chính trị số 26 ngày 23/6/1980 về việc xoá dân bao cấp quan liêu trong quản lý kinh tế xã hội, kết hợp  kế hoạch với thị trường, tháng 01/1982 Ban bí thư Trung ương Đảng khoá 4 có Chỉ thị số 100 về khoán sản phẩm  đến nhóm và người lao động  trong các hợp tác xã nông nghiệp và chính phủ ban hành Quyết định số 25 về kế hoạch ba phần trong các xí nghiệp quốc doanh.
          Được sự chỉ đạo trực tiếp của huyện uỷ Nghi Xuân, Đại hội Đảng bộ Xuân An nhiệm kỳ 1979 - 1981 và 1982 - 1983 đã nghiêm túc kiểm điểm những thiếu sót, yếu kém trong công tác lãnh đạo phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, quán triệt, bước đầu những đổi mới về phương thức quản lý kinh tế xã hội của Đảng, nhất là chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương  Đảng.
          Tuy còn ở trình độ khoán đơn giản nhưng việc thực hiện khoán theo chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ở Xuân An khi bước vào vụ mùa 1982 như một làn gió mới thổi vào làng xóm, đồng ruộng tạo nên một không khí hào hứng sôi nổi trong sản xuất vì đáp ứng đúng nguyện vọng nóng bỏng của người nông dân là được quyền làm chủ và có lợi ích thoả đáng giữa tập thể và xã viên trong điều hành sản xuất và phân phối sản phẩm. Từ đó ý thức làm chủ của người nông dân được đề cao, thu nhập vượt khoán họ được hưởng 100%, đời sống bước đầu có cải thiện. Các hiện tượng tiêu cực như rong công, phóng điểm, đi muộn về sớm được khắc phục dần, thu nhập hợp tác xã tăng từng vụ, nghĩa vụ với nhà nước  hoàn thành, nợ đọng trong xã viên giảm. Có thể khẳng định ở Xuân An nói riêng và cả nước nói chung, chỉ thị 100 đã làm cho lòng dân và ý đảng trở thành máu thịt, gắn bó keo sơn. Trong lịch sử của phong trào hợp tác nông nghiệp  ở nước ta từ  1959 lại nay chưa có một chủ trương chính sách nào của đảng, nhà nước khi đưa ra thực hiện ở nông thôn lại được sự đồng tình hưởng ứng mau lẹ, tuyệt đối như chỉ thị 100.
          Rõ ràng chỉ thị 100 của Ban Bí thư  TW Đảng là thang thuốc quý, độc nhất vô nhị để trị bệnh  quan liêu bao cấp trì trệ lâu ngày trong công tác quản lý sản xuất, phân phối sản phẩm của hợp tác xã nông nghiệp.
          Sau ba năm thực hiện Chỉ thị 100 ở Xuân An, hợp tác xã Hồng Giang đã thu được kết quả đáng phấn khởi là:
          - Tổng sản lượng lương thực năm 1984 tăng so với 1982 là 100 tấn ( từ 350 lên 450) Ngoài ra bà con xã viên còn được hưởng vượt khoán. Sau khi trích lập các quỹ và làm nghĩa vụ cho nhà nước 80 tấn năm 1984 hợp tác xã còn  242 tấn thóc để phân phối cho nội bộ xã viên. Mức ăn chia lương thực đạt 180 kg/người trong năm 1984. Nhưng nếu tính cả phần vượt khoán và 40 tấn thóc quy đổi từ kê, lạc, vừng của xã viên làm trên đất 5% thì thực tế mức lương thực bình quân nhân khẩu  nông nghiệp ở Xuân An năm 1984 đạt trên 200 kg. Đây là mức cao nhất từ 1984 về trước. Nhờ thu hoạch tăng nhanh, nạn đói  giáp hạt được đẩy lùi, diện cứu đói  thu hẹp so với 1979 trên 50%.
          V. KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CỦA BÃO LỤT, ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN. 
          Hai năm 1978 và 1982 bão lớn, lũ cao đã dâng nước ngập đồng ruộng và hơn 75% nhà của nhân dân, gây nên nhiều thiệt hại nặng nề. Đặc biệt cơn bão  số 7 đầu tháng 11/1982 gió cấp 11, 12, mưa trên 1000mm  đã tàn phá nặng nề.
          Riêng ở Xuân An tuy mùa vụ nông nghiệp đã thu hoạch xong, nhưng rau màu vụ đông mới gieo và vườn dân bị ngập úng, cây cối hư hại nghiêm trọng, hơn 65% nhà dân bị tốc mái, có 257 hộ bị đổ, sập nhà, không có người chết  nhưng 17 người bị thương, một số trâu bò, lợn, gà , vịt bị chết bị trôi.
          Trong bão to, lũ lớn lực lượng dân quân, công an, đảng viên, đoàn viên đã bám sát  từng hộ dân để cứu người, cứu tài sản, kịp đưa người già, trẻ em đến nơi an toàn và giữ gìn trật tự an ninh thôn xóm.
          Sau bão tan, lũ rút công tác khắc phục hậu quả được đảng bộ, chính quyền hợp tác xã và các đoàn thể phối hợp triển khai đồng loạt, có hiệu quả. Đặc biệt các gia đình liệt sỹ, thương binh, người già cả, neo đơn, tàn tật được ưu tiên giúp đỡ.
          Công tác tiếp nhận, quản lý,phân phối hàng cứu trợ của tỉnh và trung ương đảm bảo tận tay, đủ số, đúng đối tượng chống được thất thoát, lợi dụng trong khâu phân phối.
          Xuân An còn huy động hơn 300 dân công sau bão lụt đi làm nhiệm vụ khôi phục lại đê Hội thống bị vỡ nhiều khúc ở Xuân Trường, Xuân Hội.
          Nhờ khẩn trương, kịp thời giải quyết tốt hậu quả bão lụt, nên bước vào sản xuất  đông xuân 1982 - 1983 đã cày cấy hết diện tích gieo trồng đúng lịch  thời vụ, nhân dân vui vẻ, đoàn kết đón tến âm lịch 1983.
          VI. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ.    
- 1975 - 1985 trải qua 4 nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ ( khoá 10 đến khoá 14) Xuân An. Đã có nhiều chuyển biến khá toàn diện sức chiến của đảng bộ  thể hiện qua việc thực hiện đường lối chính sách của đảng, nhà nước vào thực tế của địa phương xã nhà ngày càng tiến bộ.
- Về công tác tư tưởng do tình hình kinh tế xã hội đang gặp khủng hoảng nghiêm trọng. Đời sống nhân dân gặp muôn vàn thiếu thốn, đất nước lại đan xen vừa có hoà bình vừa có chiến tranh. Nên trong đảng một bộ phận giao động, giảm sút lòng tin vào đường lối, chính sách, hiện tượng tiêu cực xã hội như chạy theo lợi ích cá nhân, lo vun vén kinh tế gia đìnhvv… đã tác động vào tâm tư, hành động  của một số cán bộ, đảng viên. Mặt khác khi trung ương   có chỉ thị 100 khoán sản phẩm cho nhóm và người lao động lại xuất hiện tư tưởng bảo thủ, cho rằng làm như vậy là phá hoại hợp tác xã, muốn duy trì chế độ quan liêu, bao cấp, từ đó nẩy sinh sự giao động về đường lối  chính sách kinh tế  mới của đảng vv…
Qua các đợt sinh hoạt chính trị, các kỳ đại hội đảng bộ đã kiên quyết đấu tranh với những khuynh hướng  sai lầm, xác định cho mọi đảng viên tính kiên định, vững vàng trước mọi diễn biến phức tạp của tình hình đất nước, địa phương, xây dựng lòng tin vào trung ương đảng để vượt qua khó khăn, tiếp tục dương cao ngọn cờ lãnh đạo, đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa tiến lên, vượt qua mọi thác ghềnh.
Đối với công tác tổ chức và kiểm tra, đảng bộ  đã kết hợp hài hoà việc thực hiện Chỉ thị  72 của TW  đảng và Nghị định 228 của Chính phủ về chống tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa và mọi biểu hiện  tiêu cực khác nhằm làm trong sạch nội bộ đảng. Công tác rà soát chất lượng cán bộ đảng viên để chuẩn bị cho việc phát thẻ đảng được triển khai từ tháng 8/1979 được tiến hành chặt chẽ, Đảng bộ đã tổ chức học tập và phát động cán bộ, đảng viên nêu cao phê bình tự phê bình, dũng cảm tự nhận phân loại theo hướng dẫn tiêu chuẩn của trung ương quy định, đồng thời họp dân mở rộng dân chủ để cho quần chúng góp ý xây dựng cán bộ, đảng viên. Trong đợt này 33 đảng viên được xem xét tư cách, trong đó có 12 đảng viên bị kỷ luật khai trừ đảng, 21 đồng chí phải để lại xem xét tư cách và phát thẻ vào các đợt sau. Trong số bị khai trừ có 3 cán bộ xã.
Kết quả công tác phát thẻ đảng viên đã góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, qua kiểm điểm, sàng lọc mọi đảng viên tự đánh giá được mạnh, yếu để tiếp tục phấn đấu vươn lên từ đó nội bộ đảng được đoàn kết, nhất trí cao hơn, lòng tin của dân đối với đảng được củng cố.
Qua các kỳ bầu cử đảng uỷ, chi uỷ, hội đồng nhân dân xã, ban quản trị hợp tác xã và chấp hành các đoàn thể, mặt trận tổ quốc, công tác cán bộ được sắp xếp, sàng lọc, tỷ lệ trẻ hoá và nữ được chú ý thích đáng. Công tác củng cố chính quyền được chăm lo đúng mức, hoạt động của hệ thống chính trị trong xã ngày càng đi vào nề nếp có sự lãnh đạo, điều hành thông suốt. Công tác phát triển đảng viên hàng năm được kiểm điểm nên từng bước tiến bộ, trong 10 năm đã kết nạp được 23 đảng viên mới, hầu hết dưới 40 tuổi, đa số có trình độ văn hoá cấp 2, tỷ lệ nữ còn ít, đặc biệt không phát triển được đảng viên mới trong vùng giáo.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã vận động được đông đảo đoàn viên hưởng ứng phong trào "Lao động tình nguyện xây dựng tổ quốc" và "Ba xung kích làm chủ tập thể". Hội liên hiệp phụ nữ tổ chức cho đông đảo hội viên đăng ký thi đua thực hiện "Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc". Hội nông dân tuy mới khôi phục lại với tên gọi là "Hội nông dân tập thể" đầu những năm 80 song đã vận động được đa số hội viên thi đua xây dựng "Cánh đồng, thửa ruộng cao sản".
Song hoạt động của Mặt trận tổ quốc và Hội đồng nhân dân xã chưa mạnh, còn nặng hình thức, chưa làm tốt chức năng thay mặt nhân dân giám sát chính quyền và các tổ chức kinh tế, …
1975-1985 chặng đường hơn 3000 ngày đầy cam go thử thách, nhất là trên mặt trận kinh tế, xã hội song dưới ánh sáng đường lối các nghị quyết đại hội 4 và 5 của đảng, đảng bộ Xuân An đã vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục đưa phong trào xã nhà từ đói nghèo, túng thiếu từng bước vượt qua mọi trở ngại, tìm ra cách làm và bước đi đúng để tháo gỡ khó khăn, tạo tiền đề để tiếp tục tiến lên trong chặng đường tiếp theo.
B. THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA GIAI ĐOẠN (1986-2005).
I. THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI.
Xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội của nước ta đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng, từ yêu cầu bức bách và nguyện vọng tha thiết của toàn dân tộc, tháng 12 năm 1986 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, tạo ra một bước ngoặt  có tính lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xuân An bước vào thực hiện đường lối đổi mới của đảng trong hoàn cảnh thuận lợi và khó khăn đan xem lẫn nhau.
Hai thuận lợi cơ bản là: đảng bộ có đội ngũ cán bộ, đảng viên trên 140 người đã qua thử thách trong chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội đều dày dặn kinh nghiệm, gắn bó với nhân dân, lúc nào cũng trung thành với lợi ích của dân tộc. Nhân dân Xuân An trong mọi hoàn cảnh lịch sử bao giờ cũng giàu lòng yêu nước, một lòng tin sắt đá vào sự lãnh đạo sáng suốt của đảng. Sau một vài năm thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương đảng bước đầu mặt trận nông nghiệp đã tháo gỡ được khó khăn, sản xuất tăng, nông dân được làm chủ trong sản xuất, phân phối, đời sống bước đầu được cải thiện.
Song khó khăn còn rất lớn, ngoài vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng chưa giải quyết, về cơ bản nhân dân còn thiếu ăn trong đó gần 40% hộ nông dân mỗi năm còn bị đói giáp hạt. Các mặt văn hoá, xã hội, trật tự an ninh còn nhiều tồn tại, tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Điều đáng quan tâm nhất là năng lực trình độ tổ chức thực hiện, quán triệt đường lối đổi mới của đảng bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với nhiệm vụ, tư tưởng bảo thủ, ngại khó, chủ nghĩa cá nhân còn phổ biến, nặng nề. Số đông cán bộ đảng viên nhận thức về đường lối chính sách chưa theo kịp sự phát triển của cuộc sống. Một bộ phận còn tự mãn, chủ quan, công thần và nuối tiếc cơ chế quan liêu bao cấp.
          Từ thực tế đó đảng bộ Xuân An phải đối mặt với những thách thức mới, phải tiến hành công tác tư tưởng và tổ chức một cách mạnh mẽ và sâu rộng để tiến hành thực hiện đường lối đổi mới của đảng mà Đại hội VI đã đề ra.
          1. Quán triệt bước đầu về đường lối đổi mới của Đảng gắn với củng cố tổ chức hệ thống chính trị. 
          Đại hội Đảng bộ Xuân An nhiệm kỳ 1987 - 1988 được huyện uỷ trực tiếp chỉ đạo đã kéo dài suốt ba ngày nhằm đạt hai nhiệm vụ đề ra là:
          - Quán triệt bước đầu về đường lối đổi mới của đảng do Đại hội 6 đề ra.
          - Bầu BCH  Đảng uỷ mới đủ số lượng, có chất lượng đảm đương thực hiện thắng lợi nghị quyết của đại hội.
          Với tinh thần: Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, đại hội toàn đảng bộ đã tập trung nêu cao tự phê bình, đánh giá đúng khuyết điểm, tồn tại sự lãnh đạo của đảng, trên cơ sở đó để thống nhất về nhận thức đường lối đổi mới của đảng vận dụng vào điều kiện hoàn cảnh của Xuân An là phải khẩn trương  giải quyết cơ bản về lương thực, thực phẩm bằng con đường thâm canh, tăng vụ, chọn cây trồng thích hợp với thổ nghi của địa phương, phát triển mạnh cây khoai, lạc, vừng, kê đẩy mạnh chăn nuôi hộ xã viên… Trên cơ sở đó phấn đấu đạt mục tiêu sản lượng lương thực quy thóc đến 1988  đạt trên 700 tấn đưa mức bình quân người trong năm đạt 230 kg, làm tốt nghĩa vụ lương thực, thực phẩm với Nhà nước.
          Thực hiện bước chuyển giao thế hệ lãnh đạo của đảng bộ, Đại hội đã ghi nhận và biểu dương các đồng chí cán bộ chủ trì tiêu biểu là: Hoàng Hạnh, Nguyễn Chiểu và Lê Thuý.
          Qua 20 đảm đương công tác trong hai thời kỳ chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa  xã hội đã hết lờng tận tuỵ với công việc, giữ gìn phẩm chất người cộng sản, xứng đáng  với sự tin cậy của toàn đảng bộ và các tầng lớp nhân dân.
          Đại hội đã bầu được BCH Đảng uỷ mới gồm 13 đồng chí do đồng chí Lê Anh Tài làm bí thư. Các đồng chí được cử vào BCH đảng uỷ mới đều tuổi dưới 50, số đông dưới 45, tất cả đều được thử thách qua chống Mỹ cứu nước ở chiến trường và ở địa phương, có trình độ văn hoá cấp 1 và cấp 2, có năng lực tổ chức thực hiện, được đảng viên tin cậy, quần chúng mến phục.
          Sau đại hội Đảng bộ công tác củng cố hệ thống chính trị  tiến hành từng bước theo kế hoạch chung của huyện chỉ đạo. Các đồng chí trong cấp uỷ mới, được phân công làm cán bộ chủ trì trong chính quyền, mặt trận, các đoàn thể, công an và quan sự đã góp phần đưa hệ thống chính trị trong xã vươn lên đáp ứng yêu cầu mới của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới của đảng do đại hội VI đề ra.
          2. Tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 10 khoá 6 về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp. 
          Chỉ thị 100 của Ban Bí thư TW đảng năm 1979 về chủ trương khoán sản phẩm cho nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp, tuy bước đầu thực sự đã " cởi trói" cho các xã viên khỏi sợi giây của cơ chế quan liêu, bao cấp trì trệ hàng chục năm nay. Nhưng từ 1982 về sau tình trạng " khoán trắng" đã trở thành phổ biến  đã hạn chế sản xuất làm giảm sát nhiệt tình lao động của xã viên. Nhằm sớm khắc phục tình trạng đó hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 10 khoá 6 năm 1988 xác định. Hợp tác là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã. Đây là một quyết sách mới, là sự phát triển cao hơn của chỉ thị 100, rất hợp lòng dân  nên nông dân cả nước gọi nghị quyết  ấy bằng tên gọi nôm na là " khoán 10.
          Năm 1989 ngay từ vụ đông xuân Xuân An đã  thực  hiện " khoản 10". Để thực hiện nội dung khoản mới, đảng uỷ đã chỉ đạo ban quản lý hợp tác xã Hồng Giang tổ chức phổ  biến học tập nộidung của " khoản 10" và thông qua xã viên về phân mảnh, định hạng, diện tích các xứ đồng của từng đội sản xuất rà soát lại nhân khẩu, lao động chính, phụ trên cơ sở đó có sự điều chỉnh  một bước về diện tích trong các đội sản xuất để có sự công bằng tương đối trên cơ sở thuận canh thuận cư. Sau đó các đội sản xuất mới tổ chức cho các hộ xã viên bắt thăm nhận ruộng khoán theo định suất ( 2 lao động phụ bằng 1suất lao động chính, 3 khẩu ăn theo được 1 suất lao động chính).
          "Cách khoán 10"  được tiến hành dân chủ, công khai, hợp tình, hợp lý nên bà con xã viên rất thoả  mãn và phấn khởi thực hiện. Trên cơ sở diện tích được nhận khoán, căn cứ vào hạng đất, ngay sau khi nhận khoán hộ xã viên đã biết đến cuối vụ thu hoạch  phải nạp sản lượng khoán cho hợp tác xã. Các khâu phân vô cơ, thuỷ lợi, bảo vệ đồng, giống mới hợp tác xã cung ứng,hộ xã viên đến vụ thanh toán cho ban quản lý trên cơ sở thực chi, thực thu…
          Đối với trâu bò cày kéo tập thể, hợp tác xã trước đây giao cho các hộ xã viên có điều kiện, chăn dắt, đến mùa hưởng theo công điểm, nay thực hiện khoản 10 được hoá giá và bán cho xã viên theo một quy chế là hộ nhiều ruộng khoán ghép với hộ ít để có bình quân chung được mua chung một con.
          - Hợp tác xã định giá trâu bò thấp hơn giá thị trường 10%. Thời hạn xã viên trả nợ mua trâu bò là 3 năm không tính lãi. Các hộ được mua trâu bò hoá giá có quyền chuyển nhượng trong các nhóm ghép hộ. Hộ ít phần nhượng cho hộ nhiều phần, thêm vào tiền gia đình để mua riêng trâu bò. Nhờ vậy chỉ trong một năm cả xã có thêm gần 100 trâu bò, bê nghé.
          Thực hiện khoản 10 ban quản lý nhẹ việc, tập trung lo dịch vụ cho xã viên nên giảm biên chế 1/3 nhân viên, việc hoá giá trâu bò cho xã viên thu được khoản tiền lớn có điều kiện trả nợ ngân hàng, mua máy móc và chuẩn bị cho việc đưa điện về xã phục vụ dân sinh. Xã viên được chủ động hoàn toàn trên phần ruộng nhận khoán, phấn khởi chăm lo sản xuất, nên năng xuất ngày một tăng. Số đông hộ xã viên vượt khoán từ 10 đến 30%. Cá biệt có hộ làm ăn giỏi vượt khoán đến 40,50% định mức. Nên tổng sản lượng lương thực hợp tác xã khoán cộng với số vượt khoán và thu hoạch trên đất 5% của xã viên năm 1990 ước tính trên 650 đến 700 tấn quy thóc. Nhờ đó nạn đói giáp hạt cơ bản được đẩy lùi, một bộ phận hộ nông dân đã có thóc dư thừa làm hàng hoá. Nghĩa vụ hợp tác xã đối với nhà nước về lương thực đạt 80 tấn, nôngdân còn bán thóc cho nhà nước theo giá khuyến khích được trên 20 tấn.
          Sản xuất phát triển thúc đẩy chăn nuôi gia súc, gia cầm tăng nhanh. Đàn trâu bò của xã viên năm 1990 tăng lên 150 con so với trâu bò lúc hợp tác xã quản lý. Lợn chăn nuôi tập thể không còn nhưng tổng số  lợn trong xã năm 1990 so với 1985 tăng hơn 1000 con. Đặc biệt số hộ nuôi lợn nái sinh sản giống lai kinh tế phát triển trên 100 hộ, bước đầu thoả mãn hơn 70% yêu cầu lợn con của xã viên.
          Trong quá trình thực hiện khoản 10, hợp tác xã Hồng Giang đã có nhiều việc làm sáng tạo như: Du nhập giống mới về cây trồng vật nuôi, động viên xã viên chuyển trồng cây công nghiệp trên các cánh đồng cao táo;  đưa diện tích lạc năm sau cao hơn năm trước, đến 1990 toàn xã  đã có gần 100 ha. Để giải quyết việc làm cho trên 1200 lao động, hợp tác xã có chủ trương mở rộng ngành nghề, lập các đội chuyên như: Đốt gạch, nung vôi, khai thác đá, trồng cói đay, phục hồi nghề  phụ như làm chổi, đan lát, thợ mộc, thợ nề, thợ rèn. Riêng đội khai thác đá từ 1989 về sau mỗi năm sản xuất bán trên 200 triệu đồng bằng 20% tổng thu nhập thóc khoán của hợp tác xã, đồnh thời có Đá cho HTX và xã viên xây dựng.
          Hợp tác xã thủ công vận tải, hợp tác xã mua bán và tín dụng trong điều kiện mới cũng tìm ra hướng đi để phục vụ đời sống dân sinh trong xã ngày càng có hiệu quả, song cơ chế thị trường  đang cạnh tranh gay gắt với hợp tác xã mua bán.
          Năm 1990 đảng uỷ đã chỉ đạo hợp tác xã Hồng Giang mở chiến dịch cải tạo đồng ruộng,san phẳng  hàng trăm lùm lòi, san lấp hết số hố bom của địch còn lại, di dời mồ mả về nghĩa trang các cụm dân cư. Đã tạo nên một Xuân An có các cánh đồng quang đảng không còn gò đống, bờ bụi, có bờ vùng bờ thửa xe cải tiến, xe bò lấp đi lại dễ dàng.
          Chính quyền bước đầu lập phương án xây dựng cơ bản điện, đường, trường trạm và chợ trong xã, tạo nguồn vốn từ dân đóng góp, hợp tác xã đóng góp vốn ngân sách xã và vốn vay ngân hàng để củng cố chợ, trường học, trạm xá bằng vật liệu gạch ngói và kéo được điện về xã cuối 1990. Đưa được điện về phục vụ dân sinh vào loại đầu tiên của huyện là niềm tự hào của đảng bộ và nhân dân Xuân An.
            II. KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI MÀ BÁC HỒ ĐÃ LỰA CHỌN, LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 7 ( 1991 - 1995). 
          Sau thành công của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 của Đảng cộng sản Việt Nam Liên bang Xô Viết và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bịi bọn phản bội trong nước câu kết với bọn phản động quốc tế do đế quốc Mỹ đứng đầu đã bị tan rã, sụp đổ hoàn toàn làm cho cả loài người đứng trước một cú sốc lịch sử chưa từng có.
          Trước sự thật đau lòng là chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới đang làm vào thoái trào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình phức tạp đó đã tác động vào tâm tư, tình cảm, ý chí của mọi cán bộ đảng viên. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân giao động, thiếu lòng tin, thậm chí có người muốn đất nước ta phải đi theo con đường đa nguyên đa đảng, từ bỏ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
          Sự tan rã của Liên xô và các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu còn đẩy nền kinh tế nước ta  mới bước đầu thoát ra khoải khủng hoảng trậm trọng về kinh tế và xã hội nay lại đứng trước  thách thức mới mất nguồn viện trợ to lớn về vật chất, kỷ thuật và thị trường quốc tế truyền thống, trong khi đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục bao vây cấm vận, ra sức phá hoại  ta về nhiều mặt cả chính trị, kinh tế, ngoại giao và an ninh quốc phòng.
          Đất  nước ta một lần nữa phải đối mặt trước những thách thức hiểm nghèo và vô cùng phức tạp.
          Từ khi thực hiện bước đầu cơ chế thị trường trong quản lý kinh tế và hoạt động xã hội bên cạnh những mặt tích cực, khích thích sản xuất, lợi ích người lao động được đảm bảo thì mặt trái của kinh tế thị trường đã gây nên nhiều hiện tượng  tiêu cực trong đời sống xã hội. Đó là hiện tượng tham nhũng, tha hoá đạo đức phẩm chất, chạy theo lợi nhuận, lấy đồng tiền làm chuẩn mực trong quan hệ giữa con người với con người, từ đó kéo theo các hiện tượng càn quấy, ngỗ ngược, chè chén và tệ mê tín dị đoan, sự phân hoá giàu nghèo mạnh mẽ…
          Tình hình đó đã tác động ngày càng sâu sắc trong đời sống xã hội ở Xuân An một địa phương phụ cận thành phố Vinh.
          Bên cạnh những khó khăn, phức tạp mới do điều kiện khách quan tác động, việc tái lập tỉnh Hà tĩnh được thực hiện đầu 1991 cùng với đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 7 và đại hội Đảng bộ Nghi Xuân thành công tốt đẹp tạo nên niềm phấn khởi cho toàn đảng toàn dân Xuân An.
          Trong những năm 1991 - 1995 đầy biến động, đảng bộ đã tập trung làm tốt các nhiệm vụ trung tâm là:
          1. Kiên định con đường đi lên Xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ và đảng ta đã lựa chọn. 
          Sau đại hội đảng bộ nhiệm kỳ 1991 - 1992 đảng uỷ đã khẩn trương tổ chức việc học tập, quán triệt các văn kiện, nghị quyết của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 của đảng. Đây là đợt sinh hoạt  chính trị dài ngày, sâu sắc trong đảng bộ và các tổ chức đoàn thể  trong mặt trận tổ quốc xã.
          Qua học tập cương lĩnh xây dựng xã hội chủ nghĩa và nghị quyết về kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ 4 ( 1991 - 1995) cán bộ đảng viên, đoàn viên hội viên các đoàn thể  đã nâng cao nhận thức sâu hơn những vấn đề cốt lõi:
          - Lý giải được nguyên nhân vì sao Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, sụp đổ nhanh chóng.
          - Hiểu sâu hơn về tính khách quan, tất yếu lịch sử, tính cách mạng và khoa học của việc Bác Hồ và đảng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất tổ quốc.
          Từ nhận thức đó đã tạo cơ sở lý luận và tình cảm cách mạng để moị cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên thêm kiên định quan điểm lập trường trong việc xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
          Củng cố lòng tin vào sự đúng đắn của cương lĩnh của đảng ta trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm mục đích làm cho dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Được trang bị về nhận thức, lý luận mọi luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, đa nguyên đa đảng được cán bộ, đảng viên có đủ trình độ để phê phán, những biểu hiện giao động, tiêu cực, băn khoăn lo ngại vì tiền đồ của chủ nghĩa xã hội được ngăn chặn, tình cảm yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội được củng cố.
          Trong đợt học tập, đảng bộ đã dân chủ thảo luận các giải pháp để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ các nhiệm kỳ 1991 - 1995 đề ra với phương châm hành động.

          " Đổi mới trong suy nghĩ
          Năng động trong cách làm
          Vượt lên mọi khó khăn
          Đồng lòng và hiệu quả".

 

          2. Sắp xếp lại, tổ chức hành chính, lấy đơn vị xóm làm cơ sở tổ chức thêm các đoàn thể mới là thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam. 
          Từ 1961 về sau, đều lấy đội sản xuất trong các hợp tác nông nghiệp làm đơn vị cơ sở, điều hành mọi công việc sản xuất và hành chính trong cụm dân cư, chi bộ, hay tổ đảng và các đoàn thể cũng sinh hoạt theo đội sản xuất.
          Đầu 1992 thực hiện chủ trương của trung ương và hướng dẫn  01 và 04 của huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Nghi xuân về việc chuyển đổi chi bộ theo đơn vị xóm. Xóm được tái lập lại làm chức năng quản lý hành chính. Ban quản trị hợp tác xã và đội sản xuất không kiêm nhiệm chức năng quản lý hành chính như trước đây mà chủ yếu làm chức năng  dịch vụ cho hộ xã viên.
          Ban cán sự xóm gồm bí thư chi bộ và xóm  trưởng. Xóm trưởng do hội nghị đại biểu các hộ dân trong toàn xóm bỏ phiếu kín bầu ra. Các đồng chí  xóm trưởng đều là đảng viên và kiêm  phó bí thư  chi bộ.
          Trong chi uỷ cử ra một chi uỷ viên  chuyên trách công tác chỉ đạo các đoàn thể quần chúng hoạt động.
          Xuân An từ 1992 đến khi thành lập thị trấn có 6 xóm là An Thượng, An Tiến, An Lộc, An Hoà, An Xuân, An Hồng.
          Năm 1990 Hội cựu chiến binh được thành lập và mở đại hội vào năm 1991 bầu ra ban chấp hành chính thức của hội.
          Hội cựu chiến binh được thành lập đáp ứng nguyện vọng tha thiết của cán bộ chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ đã phục viên và về hưu. Xuân An là một trong những đơn vị cơ sở vào loại đầu tiên va có đông hội viên, nhiều sỹ quan trung cao cấp của hội cựu chiến binh Nghi Xuân.
          Là những anh bộ đội Cụ Hồ dày dạn thử thách 2 cuộc kháng chiến, hội viên của hội cựu chiến binh đã phát huy được vai trò trách nhiệm chính trị trước đảng, chính quyền và nhân dân, thực sự là tổ chức quần chúng tin cậy của đảng bộ, là thành viên mới  có uy tín trong Mặt trận tổ quốc xã.
          Năm 1995 Hội người cao tuổi được tổ chức thay thế cho hội phụ lão, hội bảo thọ, Hội là tổ chức quần chúng, thành viên có đông hội viên trong Mặt trận tổ quốc xã. Các cụ là những người đã từng có nhiều công lao  đóng góp xây dựng quê hương, nhiều cụ là cán bộ, cốt cán chủ trì phong trào  cách mạng ở địa phương qua các thời kỳ, nhiều cụ  là cán bộ nhà nước, quân đội hưu trí  tuy tuổi cao, sức yếu nhưng trí tuệ tổng hợp của các cụ trong cuộc sống là vốn quý của đảng bộ nhân dân. Tấm gương cao đẹp của các cụ có tác dụng giáo dục, cảm hoá con cháu thi đua lao động sản xuất, chấp hành chính sách và pháp luật Nhà nước.
          3. Tiến hành giao ruộng đất ổn định 20 năm cho nông dân theo Nghị định 64/CP, giải thể các hợp tác xã nông nghiệp, mua bán, tín dụng và thành lập ban nông nghiệp xã giúp chính quyền trực tiếp chỉ đạo sản xuất, dịch vụ cho các hội nông dân các khâu cần thiết. 
          Công tác giao ruộng đất cho nông dân theo nhân khẩu  hiện có và ổn định lâu dài 20 năm theo Nghị định 64 của Chính phủ là một chủ trương lớn hợp lòng dân. Song khi tiến hành thực hiện phải  công phu chuẩn bị: diện tích, phân loại hạng đất, các mảnh trên các cánh đồng, tính lại nhân khẩu của từng hộ ( số trẻ em sinh sau 1993 khi có pháp lệnh sinh đẻ có kế hoạch thì những em bé thứ 3 của hộ ấy không được chia ruộng).
          Những khẩu về nghỉ việc theo Nghị định 176/CP được đóng tiền theo định suất xã quy định cũng được chia ruộng. Sau khi chuẩn bị đầy đủ các số liệu trên và thông qua họp xóm để dân góp ý mới triển khai  việc ghép thăm  cho các hộ theo nhóm có số khẩu ngang nhau, được chia ruộng ngang nhau về diện tích  và hạng đất mới tiến hành họp xóm để đại diện các nhóm lên bắt thăm. Trên cở sở thăm bắt được ở xóm, các nhóm họp để phân ruộng cho các khẩu của từng hộ với cơ sở hiệp thương, thoả thuận, công bằng.
          Công tác này phải tốn công sức và tiến hành trong 3 tháng đầu 1994, nhờ thực hiện đúng phương châm dân chủ, công khai nên công tác thực hiện Nghị định 64/CP ở Xuân An cơ bản đạt yêu cầu. Nhân dân rất phấn khởi  khi được nhận những thửa ruộng của chính quyền xã giao ổn định trong 20 năm ( người chết không rút ruộng, trẻ em sinh thêm không được chia ruộng). Từ đây họ thực sự là chủ nhân của ruộng đất được chia, có quyền chuyển nhượng. Tuy nhiên công tác chia ruộng theo khẩu, ổn định 20 năm cho nông dân ở Xuân An còn tồn tại một số điểm, gây cản trở cho sản xuất, khó khăn cho quy hoạch của xã đó là:
          - Do tư tưởng tư hữu, bình quân chủ nghĩa nên chia thửa manh mún để ai cùng có xa, gần, tốt xấu như nhau. Nên có hộ chỉ 3,4 sào song phải nhận 6,7 thửa ở 3,4 cánh đồng.
          - Đất 5% để lại không chia làm quỹ đất dự phòng không được quy hoạch vào một vùng chung cả xã mà tuỳ tiện mỗi xóm để một cách khác nhau.
          Sau khi ổn định ruộng đất lâu dài cho nông dân, vai trò của ban quản lý hợp tác xã bị lu mờ, vốn liếng ít, nợ xã viên nhiều thu, tác dụng dịch vụ cho sản xuất thấp,nên đầu 1994 hợp tác xã Hồng Giang sau 18 năm tồn tại phải giải thể. Ban nông nghiệp xã trực thuộc  uỷ ban nhân dân xã được tổ chức  gọn có 3 người ( kể cả khuyến nông) thay thế chức năng của ban quản lý hợp tác xã, không có tài khoản riêng mà phụ thuộc ngân sách xã trong các khoản thu chi hàng vụ, hàng năm.
          Trong các năm 1991 và 1992 do cơ chế thị trường cạnh tranh và lấn át, vai trò các hợp tác tín dụng và mua bán kém phát huy  tác dụng  theo chủ trương bị giải thể, tập trung mọi nguồn vốn, tài sản, nguồn nợ phải trả, phải thu về ngân sách xã.
          Đến 1994 - Ba ngọn cờ hồng ở Xuân An trong cao trào hợp tác hoá không tồn tại vì không thích ứng  với cơ chế thị trường và hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Việc không tồn tại kinh tế tập thể là điều khiếm khuyết, song trong thực tiễn, nếu để hợp tác xã hoạt động cũng ít có tác dụng.
          Tuy bị giải thể và lùi vào quá khứ, song nhìn lại vai trò lịch sử của ba ngọn cờ hồng ở Xuân An trong những năm chống Mỹ cứu nước và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất  của chủ nghĩa xã hội, ở địa phương các hợp tác xã nông nghiệp, mua bán, tín dụng thực sự là pháo đài xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, đảm bảo hậu cần tại chỗ cho chiến đấu, sản xuất, đời sống của toàn dân để thực hiện khẩu hiệu " Thóc thừa cân, quân thừa người" chi viện kịp thời cho miền Nam và cách mạng Lào.
            4. Bước đầu thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng.
          Sau gần 20 năm, tìm kiếm con đường tăng năng suất cây lúa để tiến lên từng bước giải quyết tự túc lương thực mà biện pháp hàng đầu là làm thuỷ lợi, đến những năm đầu thập kỷ 90 cuối thế kỷ 20 Đảng bộ và người nông dân Xuân An mới khẳng định: Trên địa bàn Xuân AN không thể thuỷ lợi hoá để tưới tiêu khoa học đưa năng suất cây lúa lên trên đất cát bạc màu, thoát nước nhanh. Vì vậy phải tìm kiếm con đường đi lên tự túc lương thực đẩy lùi đói nghèo và làm giàu. Con đường ấy là phải cơ cấu lại cây trồng, vật nuôi sao cho thích ứng với thổ nghi, môi trường, khí hậu, điều kiện tự nhiên của địa phương.
          Từ thực tiễn của sản xuất trong các năm từ 1985 – 1991 Xuân An trồng khá nhiều loại cây. Ngoài lúa là chính có các cây khoai, ngô, đậu, vừng, kê và lạc. Nhưng chỉ có cây lạc là cây có hiệu quả nhất và có thể mở rộng diện tích nhanh, thâm canh không tốn kém nhiều vốn liếng. Nên từ 1992 đảng bộ và nhân dân Xuân An xác định cây lạc là cây chủ lực trên đồng màu, nó là cây xoá đói giảm nghèo  cho toàn dân. Từ đó diện tích lạc dưới 100 ha năm 1991 đã tăng lên, 100kg/sào. Nếu tính thành tiền thì 1 sào lạc giá trị thu hoạch bằng 2 đến 3 sào lúa nhưng  tốn công sức và tiền đầu tư ít hơn trồng lúa, có lạc làm hàng hoá thì sẽ có tiền mua nhiều thóc gạo ở thị trường.
          Đến 1994 tỷ lệ giá trị bằng tiền của cây công nghiệp, rau màu ở Xuân An đã xấp xỉ bằng 50% giá trị của cây lúa. Nhờ đó đời sống của nông dân được cải thiện rõ, nhiều hộ đã có hàng hoá hàng chục triệu đồng trong năm. Sau ngày cầu Bến Thuỷ thông xe (1991), quốc lộ số 1 qua xã được nâng cấp và nắn lại. Xuân An trở thành một nơi trao đổi, giao lưu hàng hoá tấp nập, nên xã khuyến khích nhân dân phát triển mạnh dịch vụ và ngành nghề phụ, nhờ đó lượng tiền hàng năm tăng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt nhất là các hộ làm dịch vụ ven đường quốc lộ, tỉnh lộ.
          Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng gồm điện đường trường trạm được quan tâm, được quy hoạch và xây dựng từng bước. Đặc biệt là trong quá trình xây dựng quy hoạch đưa xã Xuân An lên thị trấn.
          5. Góp phần hoàn thành xây dựng quy hoạch thị trấn Xuân An.
          Sau khi thông xe cầu Bến Thuỷ và tái lập tỉnh Hà Tĩnh đầu năm 1991, xã Xuân An trở thành vùng đất địa đầu huyện Nghi Xuân và tỉnh Hà Tĩnh, phụ cận phía nam thành phố Vinh, có đủ điều kiện tự nhiên, kinh tê, xã hội để phát triển thành một thị trấn sầm uất, ở vị trí đầu cầu của núi Hồng, sông Lam.
          Vì vậy, sau ngày tái lập tỉnh, tuy bận rộn bao công việc của một tỉnh nghèo, khó khăn trăm bề, tỉnh uỷ và uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã có chủ trương chỉ đạo huyện Nghi Xuân tổ chức điều tra, xây dựng quy hoạch tổng thể xây dựng một thị trấn ở vùng Bến Thuỷ – Gia Lách để đẩy nhanh tốc độ quy hoạch, huyện đã thành lập ban quy hoạch kinh tế xã hội thị trấn Gia Lách do đồng chí Trần Xuân Tịnh thường vụ huyện uỷ, chủ tịch hội đồng nhân dân Nghi Xuân làm trưởng ban, đặt trụ sở tại xã Xuân An.
          Gần hai năm khảo sát, nghiên cứu, đề xuất nhiều phương án khác nhau, cuối cùng và Bộ xây dựng chọn phương án tối ưu là chuyển xã Xuân An thành lập thị trấn Xuân An. Phương án này rất hợp lòng dân, ý đảng, vì vậy được đảng bộ và nhân dân đồng tình, phấn khởi, tích cực góp phần tạo điều kiện để xã Xuân An có đầy đủ tiêu chí trở thành một thị trấn địa đầu của huyện và tỉnh.
          Đầu 1993 tỉnh đã có chủ trương kêu gọi các hộ dân trong huyện và trong tỉnh và các cơ quan, xí nghiệp của trung ương, địa phương đến cư trú và đóng cơ quan, xí nghiệp trên đất Xuân An.
          Được đảng bộ và nhân dân Xuân An vui vẻ nhường đất vườn, đất nông nghiệp với diện tích gần 100 ha để hơn 900 hộ dân i gần 2000 khẩu và 48 cơ quan xí nghiệp có đất ở, đất xây dựng xí nghiệp, cơ quan. Tình hình đó diễn ra ồ ạt, trong vòng 1 năm từ giữa 1993 đến giữa 1994 đã nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu dân cư, ngành nghề của xã Xuân An. Từ một xã thuần nông, nghèo hơn 90% là nông dân đã trở thành một xã trù phú, mang hình dáng một thị trấn sầm uất có nhiều nhà kiên cố, cao tầng mới xây dựng còn tươi màu ngói mới, cửa hàng, cửa hiệu san sát dọc hai bên đường quốc lộ, tỉnh lộ kéo dài nhiều km. Dân số tăng gần gấp đôi, nông dân chỉ còn 53% dân cư. Các ngành thương mại, dịch vụ, thủ công, vận tải, xây dựng hoạt động sôi nổi tạo nên sinh khí mới làm thay đổi bộ mặt của một vùng quê nghèo nhưng giàu tiềm năng phát triển.
          6. Tổ chức đón danh hiệu đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và lễ công bố thành lập thị trấn Xuân An.
          Năm 1994 đối với Đảng bộ và nhân dân Xuân An là một năm có hai sự kiện lịch sử trọng đại, có ý nghĩa chính trị sâu sắc, ý nghĩa kinh tế xã hội vô cùng quan trọng, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới, vượt bậc của đất Kẻ Lau, Kẻ Lách, Khải Mông xưa. Đó là.
          a. Tổ chức đón danh hiệu đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong chống Mỹ cứu nước của xã Xuân An  do Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định tôn vinh.
          Đây là ngày hội lớn có đông đại biểu từ Quân khu 4, tỉnh Hà Tĩnh và huyện Nghi Xuân đến dự, hơn 2000 đồng bào, cán bộ trong xã tham gia và hàng trăm con em từ mọi miền tổ quốc trở về chung vui với quê hương. Nhiều đơn vị bộ đội, cơ quan, xí nghiệp đã từng chung lưng đấu cật với Xuân An trong hai cuộc kháng chiến cũng nhịêt tình đến chốn cũ, người xưa để chia sẻ niềm tự hào với Xuân AN.
          b. Tổ chức công bố nghị định của Thủ tướng chính phủ số 48 ngày 08/6/1994về việc thành lập thị trấn Xuân An trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Xuân An.
          Việc thành lập thị trấn Xuân An là một tất yếu khách quan, đòi hỏi của sự phát tiển về kinh tế xã hội của huyện Nghi Xuân sau ngày tỉnh Hà Tĩnh tái lập. Đó cũng là ước mơ cháy bỏng và nguyện vọng tha thiết của đảng bộ và nhân dân Xuân An. Thị trấn Xuân An khi mới thành lập có diện tích tự nhiên 1046 ha, trong đó có 388 ha đất nông nghiệp, dân số 1774 hộ; 7653 khẩu trong đó có 952 hộ nông dân, 822 hộ thương mại, dịch vụ, thủ công, vận tải và hưu trí, có 335 hộ giáo dân gồm 1569 nhân khẩu.
          Về hệ thống chính trị có 280 đảng viên sinh hoạt ở 12 chi bộ, Đoàn viên có 341, phụ nữ có 1020 hội viên, cựu chiến binh có 162 hội viên.
          Ban chấp hành đảng uỷ có 11 người, bí thư là đồng chí Trần Xuân Tịnh thường vụ huyện uỷ, chủ tịch là Đậu Hữu Thân huyện uỷ viên.
          Từ 6 xóm  của xã Xuân An được tổ chức lại thành 12 khối dân cư theo thứ tự từ 1 đến 12.
          III. THỊ TRẤN XUÂN AN BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC (1995 – 2005).
          Thị trấn Xuân An được thành lập từ một xã thuần nông nghèo đói, bị chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đánh phá có tính chất huỷ diệt để lại nhiều hậu quả nặng nề chưa khắc phục hết, song ra đời trong điều kiện đất nước ta sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội 6 và 7 của đảng cơ bản nền kinh tế đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
          Bên cạnh những thuận lợi về tiềm năng đất đai, tài nguyên, lao động, vị trí địa lý và được sự chỉ đạo, giúp đỡ của tỉnh, huyện, các ngành, nhưng thị trấn Xuân An cũng đang gặp những khó khăn, yếu kém trên nhiều mặt.
          Yếu kém lớn nhất là năng lực trình độ của cán bộ, đảng viên, trước hết là các cấp uỷ, chính quyền còn bất cập, chưa tương xứng với nhiệm vụ chính trị. Sức chiến đấu của đảng bộ chưa ngang tầm với công việc của một thị trấn mới ra đời, một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả đồng chí cốt cán, chủ trì trong quá trình chuẩn bị quy hoạch và triển khai thực hiện quy hoạch xây dựng thị trấn đã lợi dụng chức quyền gây nên những hậu quả nghiêm trọng lâu dài, tạo nên lực cản của phong trào chung, gây mất đoàn kết nội bộ, tạo kẻ hở để quần chúng đấu tranh, khiếu kiện kéo dài, vượt cấp. Mặt khác tác phong công tác và tư duy kinh tế của đa số cán bộ, đảng viên còn bảo thủ, chưa thoát khỏi những hạn chế cố hữu của cơ chế quan liêu, bao cấp.
          Vượt qua những khó khăn, yếu kém, phát huy thế mạnh của thiên thời địa lợi, nhân hoà, truyền thống anh hùng trong kháng chiến chống Mỹ, đảng bộ thị trấn Xuân An đã lãnh đạo nhân dân viết mới những trang sử đáng tự hào trong 10 năm phấn đấu không mệt mỏi chặng đường cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.
          1. Từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tê, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Xuất phát từ tình hình kinh tế một xã thuần nông nhưng chưa tự túc được lương thực, đại hội đại biểu đảng bộ thị trấn họp ngày 04,05 tháng 10/1994 sau công bố thành lập thị trấn đã ra nghị quyết hướng phấn đấu đưa cơ cấu kinh tế của thị trấn từ thuần nông thành một thị trấn có cơ cấu kinh tế “công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp dịch vụ thương mại và phát triển kinh tế gia đình”
Phấn đấu theo nghị quyết của đảng bộ khi mới thành lập thị trấn, trải qua 3 nhiệm kỳ của đại hội đảng bộ, tuy chưa hoàn thành trọn vẹn mục tiêu về cơ cấu kinh tế, song đã có những biến chuyển cơ bản trong cơ cấu kinh tế. Đến 2005 tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của thị trấn chỉ còn 19,3%.
Thương mại, dịch vụ chiếm 28,3%, thủ công nghiệp, công nghiệp nhỏ, ngành nghề chiếm 33,5%, xuất khẩu lao động và trợ cấp hưu, trợ cấp xã hội 29,9% từ 200o trở về sau số lao động không có việc làm giải quyết được 800 người, xuất khẩu lao động ra nước ngoài đến 2005 có trên 100 người ( kể cả đi lao động các tỉnh phía nam).
Cơ cấu trong nông nghiệp có bước thay đổi mới: 
Diện tích lúa chỉ còn trên dưới 180 ha trong khi đó diện tích lạc chính vụ năm 2005 đạt xấp xỉ 200ha (gấp 2 lần 1994), lạc hè thu và lạc xen khoai vụ đông 28 ha. Nhờ đó tổng lương thực quy thóc tăng nhanh. Năm 2005 đạt 1750 tấn hương ước quy thóc bình quân nhân khẩu nông nghiệp đạt xấp xỉ 400kg/người trong năm, cơ bản giải quyết tự túc lương thực.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm  2000-2005 đạt bình quân 15%.
Nguồn thu ngân sách khi thành lập thị trấn năm 1995 chỉ có 300 triệu đồng đến 2005 đạt hơn 4,8 tỷ đồng tăng 16 lần. Đời sống nhân dân ổn định, đa số được cải thịên, một số hộ giàu xuất hiện thu nhập trên 200 triệu đồng trong năm. Kinh tế gia đình bước đầu khởi sắc, nhiều mô hình VAC, chăn nuôi vịt đàn, gà công nghiệp, lợn tăng trọng; xuất hiện nhiều hộ thu lãi 20-30 triệu đồng trong năm. Đàn gia súc tăng 23%, gia cầm tăng gấp 3 lần.
Tuy vậy nhìn chung kinh tế thị trấn Xuân An chưa thoát khỏi nghèo, thiếu bền vững, chưa có công nghiệp, số công ty tư nhân còn ít ỏi, chưa xây dựng được làng nghề, kinh tế du lịch chưa ra đời. Trong nông nghiệp tồn tại lớn nhất là: không năm nào cấy hết diện tích, thường bỏ hoang 10% tổng diện tích, chưa làm tốt công tác khuyến nông, phòng trừ dịch bệnh, chưa tạo được đàn bò lai sin. Việc buông lỏng quản lý đất đai, tệ lấn chiếm chưa kiên quyết, quy hoạch treo, xây dựng không theo quy định, tiến độ chậm để lại hậu quả xấu, nhân dân bức xúc...
2. Phát triển cơ sở hạ tầng, thực hiện các cuộc vận động xoá dói giảm nghèo, xoá nhà tranh tre dột nát, chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn, chăm lo đời sống các gia đình có công.
- Thực hiện chương trình hành động về xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng theo hướng đô thị hoá với phương châm nhà nước, địa phương và nhân dân cùng làm. Trong 10 năm từ 1995-2005 đã đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm điện, đường, trưởng, trạm và các công trình thuỷ lợi, phúc lợi xã hội tổng số tiền là 8 tỷ 205 triệu đồng, trong đó nhà nước đầu tư 16%, ngân sách thị trấn 50%,nhân dân đóng góp 34%, kết quả đã xây dựng được.
- 2 trạm biến thế, nâng cấp 15km đường dây hạ thế, 13 hội quán khối phố, 20km đường bê tông nội thị, 1 trạm  xá, 5 trường học cao tầng và cấp 4 của 3 cấp học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, 1 đài tưởng niệm liệt sỹ.v.v...
- Cùng với xây dựng cơ bản trong nhân dân của 13 khối phố và các cơ quan xí nghiệp hàng trăm tỷ đồng, đến nay bộ mặt thị trấn Xuân An đã có dáng dấp đô thị hoá, nhà cao tầng, khách sạn, mọc lên ngày càng nhiều, trong thôn xóm nông nghiệp cũng xuất hiện nhiều nhà vườn theo kiểu biệt thự nhỏ.
- Tuy vậy cũng như các đô thị lớn và nhỏ ở nước ta, thị trấn Xuân An trong xây dựng tuy có quy hoạch ban đầu song thực hiện tuỳ tiện, kiểu dáng nhà dân cho đến khách sạn, nhà hàng, trụ sở cơ quan không theo một chuẩn mực kiến trúc vừa hiện đại vừa dân tộc mà mang tính chất tuỳ tiện dở Âu, dở Á rất lộn xộn...
- Cuộc vận động xoá đói giảm nghèo, xoá nhà tranh tre dột nát trong 10 năm qua được thực hiện liên tục, đưa lại kết quả tương đối lớn và toàn diện. Năm 1995 theo tiêu chí cũ (160.000đ/tháng) số hộ nghèo có tới 22,7%, đến 2005 chỉ còn 9,9% có được thành tích giảm trên 10% hộ nghèo là nhờ đã tích cực triển khai đồng bộ các biện pháp:
- Vận động nhân dân tương trợ lẫn nhau trong sản xuất đời sống.
- Ban nông nghiệp thị trấn đẩy mạnh công tác khuyến nông, chính quyền thị trấn đã chỉ trong 10  năm là 75 triệu đồng tiền trợ giá giống cây cao sản và phục vụ công trình thuỷ lợi cầu cống cho bà con nông dân.
- Uỷ ban thị trấn và các đoàn thể đã tín chấp cho các hộ nghèo vay tiền ngân hàng có thêm vốn sản xuất. Đến cuối 2005 số tiền nợ ngân hàng toàn thị trấn là 10 tỷ 280 triệu đồng.
Nếu tính trong 10 năm, ngân hàng đã cho nhân dân thị trấn vay xấp xỉ 17 tỷ đồng.
Cuộc vận động xoá nhà tranh tre dột nát đã thu được kết quả khả quan, trong 5 năm 2000 – 2005 đã sử dụng ba nguồn vốn: huyện cấp, dân đóng góp, gia đình đối tượng xuất, tổng số là 512 triệu đồng làm được 52 ngôi nhà cấp 4, trong đó có 33 ngôi cho các đối tượng, chính sách, 19 ngôi nhà cho các hộ nghèo.
Công tác ưu đãi, chăm sóc người có công và giải quyết tồn đọng sau chiến tranh được triển khai thường xuyên và kịp thời, có hiệu quả.
- Việc trợ cấp tiền ưu đãi người có công đảm bảo đủ số, đúng kỳ, tận tay đúng đối tượng, không xẩy ra sai sót.
- Ngân sách xã và dân hỗ trợ hàng năm đã tặng quà tết và ngày 27/7 cho các gia đình liệt sỹ, anh chị em thương bệnh binh ngoài chế độ nhà nước bình quân mỗi năm từ 7 đến 10 triệu.
- Các đoàn thể vận động hội viên, đoàn viên ủng hộ quỹ tấm lòng vàng đối với các hộ chính sách khó khăn 33 sổ tiết kiệm mỗi sổ 200.000 đồng.
Chính quyền thị trấn và các doàn thể, mặt trận tổ quốc đã kịp thời giải quyết tồn đọng trong chiến tranh với khối lượng rất lớn như:
- Cấp hơn 1000 người được hưởng 1 lần huân huy chương kháng chiến.
- Xét và giải quyết chính sách cho gần 200 đối tượng, chất độc da cam, thanh niên xung phong và những người hưởng theo nghị định 47/CP (Đi bộ đội trong chống Pháp chưa được hưởng quyền lợi gì).v.v...
Tuy đã có nhiều biện pháp để thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo song cho đến năm 2005 theo tiêu chí mới (200.000 đồng/tháng) số hộ nghèo ở thị trấn vẫn còn tới 32%. Lượng tiền vay ngân hàng rất lớn nhưng việc theo dõi chỉ đạo các đối tượng vay sử dụng ra sao, bị buông lỏng. Vì vậy có một số hộ nghèo sử dụng vốn vay để làm nhà, mua xe máy, để sử dụng sai mục đích khá nhiều.
Công tác xét duyệt, chứng nhận hồ sơ của một số đối tượng hưởng chế độ người có công như thương binh, cán bộ tiền khởi nghĩa, chất độc da cam cơ bản hoàn thành song có một số trường hợp thiếu chính xác, gây mâu thuẫn trong nhân dân.
Thực hiện nghị quyết của tỉnh uỷ, huyện uỷ về việc chuyển đổi ruộng đất từ thửa nhỏ sang ô thửa lớn trong nông nghiệp, đảng uỷ và chính quyền thị trấn đã chỉ đạo ban nông nghiệp đưa ra dân bàn bạc, sắp xếp ô thửa, xếp hạng, xếp mảnh và xếp thăm để công khai tổ chức bắt thăm. Kết quả số ô thửa mới chỉ bằng 50% ô thửa cũ, đã tạo điều kiện thuận lợi cho bà con nông dân trong sản xuất. Việc chuyển đổi tiến hành gọn, kết thúc cuối năm 2002. Song việc để lại ruộng đất dự phòng 10% còn có nơi chưa làm đúng quy hoạch, còn manh mún. Việc quản lý cũng còn lỏng lẻo dẫn đến đất dự phòng bị lấn chiém ngày càng nhiều xử lý thiếu kiên quyết để đi lại hậu quả không tốt.
3. Thực hiện bước đầu xã hội hoá y tế, giáo dục, tăng cường công tác văn hoá xã hội nâng cao dân trí và sức khoẻ cho nhân dân.
          Xuất phát từ nhận thức giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu trong quá trình xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện đường lối xã hội hoá giáo dục của đảng, từ sau ngày thành lập thị trấn đến 2005 Xuân An đã bỏ ra nhiều công sức của đảng bộ và nhân dân để hoàn thành cơ bản về xây dựng kiên cố, cao tầng hoá trường học. Đầu tư 5 tỷ 829 triệu đồng xây dựng, hoàn thiện các trưởng mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, đến nay 4/5 trường học cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1.( trừ trường THCS).
          Kết quả học tập của con em thị trấn ngày càng cao, tỷ lệ học sinh giỏi cấp huyện và tỉnh năm sau cao hơn năm trước. Riêng 2005 có 107 học sinh tiểu học và trung học cơ sở đạt danh hiệu học sinh giỏi, trong đó có 43 em dạt cấp tỉnh, năm 2005 có 56 học sinh thi đậu các trường đại học, cao đẳng.
          Công tác vệ sinh, phòng dịch, phòng bệnh giữ gìn môi trường xanh sạch đẹp trong các khối phố, ở các nơi công cộng được thường xuyên quan tâm  vận động, nhắc nhở mọi người trong thị trấn chấp hành tốt. Chương trình tiêm chủng mở rộng được thực hiện có nề nếp, không xẩy ra dịch bệnh trong 10 năm  qua (1995-2005). Trạm y tế luôn giữ được truyền thống trạm tiên tiến của huyện. Ngoài trạm xá, hoạt động của y tế tư nhân cả đông, tây y đều được chính quyền thị trấn khuyến khích, các hiệu thuốc tây, thuốc bắc kinh doanh đều có giấy phép.
          Các khối phố lần lượt xây dựng được nhà văn hoá, chủ yếu là do dân đóng góp, phong trào toàn dân thực hiện cuộc vận động xây dựng thị trấn văn hoá, khối phố văn hoá, gia đình văn hoá ngày càng sôi nổi. Năm  2005 có 70% số hộ đạt danh hiệu gia đình văn hoá, 5 khối phố đạt danh hiệu khối phố văn hoá. Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao thể dục được duy trì. Phong trào đi bộ buổi sáng, tập dưỡng sinh của cán bộ hưu trí, người cao tuổi thu hút hàng trăm người. Hội phụ nữ có sáng kiến tổ chức câu lạc bộ những người không sinh con thứ 3, công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em, sinh đẻ có kế hoạch được quan tâm, tỷ lệ sinh năm 2005 đạt 0,9%.
          Tuy nhiên chất lượng các hoạt động văn hoá y tế, giáo dục... chưa bền vững, còn tồn tại một số điểm bức xúc như:
          - Số học sinh chưa ngoan chiếm tỷ lệ còn cao (5-7%).
          - Các tệ nạn ma tuý, HIV, rượu chè, cờ bạc, trộm cắp... chưa bị bài trừ triệt để, hiện còn diễn biến phức tạp, vệ sinh môi trường chưa đi vào nề nếp.
          - Thực hiện chỉ thị 27 của Bộ Chính trị về việc cưới, việc tang chưa tốt, hiện tượng lãng phí trong mâm cỗ, điếu phúng còn phổ biến.
          4. Giữ vững ổn định chính trị, tăng cường công tác an ninh, quốc phòng.
          Là một thị trấn đầu cầu của tỉnh và huyện, ở phía nam thành phố Vinh (Nghệ An) nơi có tuyến giao thông bộ, thuỷ tấp nập quanh năm, lượng khách vãng lai lớn, có nhiều cơ quan, xí nghiệp, trường học, đơn vị bộ đội đóng, cơ cấu dân cư có cả giáo dân và phật tử, Giáo xứ Gia Hoà và chùa Thanh Lương, Phong Phạn là trung tâm Thiên Chúa giáo và Phật giáo của cả huyện. Nhưng từ ngày thị trấn ra đời đến nay vẫn giữ vững ổn định chính trị, tuy có khiếu kiện xẩy ra, kéo dài, vượt cấp song không dẫn đến điểm nóng về trật tự, an ninh, Mọi hoạt dộng của bọn tội phạm và các hiện tượng tiêu cực xã họi đều được đồn công an Da Lách, lực lượng an ninh thị trấn, dân quân và nhân dân kịp thời trấn áp, xử lý, giám sát giáo dục và cảm hoá.
          Nhận thức âm mưu và các thủ đoạn của các thế lực phản động quốc tế và trong nước về diễn biến hoà bình, gây bạo loạn lật đổ, phá hoại trật tự an toàn xã hội đối với sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta, đảng bộ và nhân dân thị trấn thường xuyên để cao cảnh giác, tăng cường an ninh quốc phòng, không ngừng xây dựng thế trận an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân ngày càng vững mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, ổn định xã hội.
- Về công tác an ninh chính trị được giữ vững, an toàn xã hội đảm bảo, lực lượng công an viên đều có đủ biên chế từ các khối phố đến toàn thị trấn. Thành lập 13 tổ hoà giải ở khối phố đã kịp thời giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Có kế hoạch hiệp đồng công tác giữa công an thị trấn và đồn DaLách công an huyện trong công tác phòng chống tội phạm, xử lý vi phạm trật tự an toàn xã hội, hạn chế gia tăng tội phạm và các hiện tượng tiêu cực xã hội.
- Công tác quân sự địa phương được thực hiện tốt trên nhiều mặt cơ bản như: xây dựng trung đội dân quân mạnh, phát triển lực lượng phù hợp, đảm bảo chất lưọng, duy trì chế độ huấn luyện quân sự, học tập chính trị cho lực lượng dân quân.
- Hàng năm thực hiện tốt công tác gọi thanh niên nhập ngũ và đón nhận anh em quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự về địa phương.
- Quản lý lực lượng dự bị động viên, thực hiện pháp lệnh dân quân tự về đi vào nề nếp.
- Triển khai thực hiện cuộc vận dộng cơ sở an toàn làm chủ, trong sạch vững mạnh đối với công tác quốc phòng an ninh.
- Làm tốt công tác lập phương án và diễn tập theo phương án chống bạo loạn lật đổ, chống bão lụt, chống cháy rừng theo lệnh của huyện và tỉnh.
- Thực hiện nghị quyết 02 của Bộ Chính trị về cơ ché đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, cơ quan quân sự, công an phối hợp với các đoàn thể làm tốt chức năng tham mưu trong công tác quốc phòng an ninh.
- Giữ gìn sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đơn vị quân sự và công an đối với thị trấn.
5. Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Thực hiện cuộc vận động xây dựng chi bộ, Đảng bộ trong sạch vững mạnh và nghị quyết 6 trung ương 8 về “chỉnh đốn đảng” từ 1986 lại nay, cùng với toàn đảng, đảng bộ xã Xuân An và thị trấn Xuân An đã thường xuyên chăm lo công tác xây dựng đảng, coi công tác xây dựng đảng là then chốt.
Về tư tưởng: Có thể nói thời gian 20 năm qua trong chặng đường đầy biến động, phức tạp và khó khăn trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của đảng, công tác tư tưởng ở đảng bộ đã tập trung làm tốt các nhiệm vụ chủ yếu:
- Quán triệt đường lối đổi mới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiên quyết xoá bỏ quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế quản lý kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh.
- Đấu tranh phê phán, khắc phục mọi biểu hiện giao đông, kiên định đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ và đảng ta đã lựa chọn, ra sức học tập lý luận nâng cao nhận thức về đường lối chính sách, đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, chống mọi biểu hiện bảo thủ trì trệ, hữu khuynh.
- Kịp thời đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện tham nhũng, cửa quyền, lợi dụng chức quyền để đục khoét của công làm giàu bất chính, tha hoá về phẩm chất, lối sống, bị quần chúng lên án.
- Giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, gắn bó mật thiết với quần chúng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong kinh tế và xã hội, giữ vững nguyên tắc tập trung, dân chủ, phê bình và tự phê bình.
Đây cũng là thời kỳ đảng ta bước vào cuộc “chỉnh đốn” nhằm làm trong sạch đảng để củng cố lòng tin của nhân dân đối với đảng.
- Về công tác tổ chức.
Công tác tổ chức đã tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ, chi bộ thể hiện qua các kỳ đại hội đảng bộ, chi bộ đã vận dụng đường lối đổi mới cuả đảng vào thực tiễn của thị trấn ra được nghị quyết sát đúng, tìm ra được giải pháp thực hiện để nhanh chóng phát triển kinh tế, chăm lo công tác xã họi, giữ gìn an ninh quốc phòng. Thắng lợi bao trùm của công tác tổ chức là trong 10 năm tuy gặp không ít khó khăn, phức tạp nhưng đến nay kinh tế của thị trấn đã thoát khỏi thuần nông, nghèo dói, lạc hậu, bước đầu xây dựng được cơ cấu mới trong kinh tế là: nông nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại và kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển, tạo tiền đề cho xây dựng thị trấn công nông nghiệp dịch vụ về sau.
Công tác cán bộ và đảng viên đã được tiến hành thường xuyên cả 3 mặt:
- Giáo dục chính trị nâng cao nhận thức và năng lực tổ chức, thực hiện.
- Phát triển đảng viên mới và kiên quyết xử lý những cán bộ đảng viên vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật nhà nước.
Chỉ riêng nhiệm kỳ 2000-2005 đã kết nạp mới 60 quần chúng ưu tú trong đó có 4 đảng viên là giáo dân. Đã lập thêm 1 chi bộ trong vùng giáo đưa 13 khối phố có đủ 13 chi bộ Đảng.
Từ 1986 lại 2005 Đảng bộ đã kiên quyết đưa ra khỏi đảng những cán bộ đảng viên không đủ tư cách tổng số là 37 đồng chí (kể cả xoá tên) trong đó có 7 cán bộ, cấp uỷ viên.
Qua xếp loại chi bộ, đảng bộ và đảng viên hàng năm đều có tiến bộ.
1986 mới có 1 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh và 30% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. 2005 Đảng bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, 11/15 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, 76% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Công tác cán bộ: đảng bộ đã thường xuyên chăm lo bồi dưỡng đào tạo, trẻ hoá đội ngũ cán bộ, coi công tác cán bộ là khâu cấp bách, quyết định thắng lợi của việc thực hiện mọi chủ trương chính sách.
Đã thực hiện sự chuyển giao các thế hệ cán bộ trong các nhiệm kỳ đại hội trong thời gian 2000-2005 đã lập được quy hoạch cán bộ tương đối hợp lý, kịp thời bố trí cán bộ đi học dài hạn, tại chức cả văn hoá và chuyên môn, nghiệp vụ, tiến tới 70% cán bộ có trình độ đại học, trung cấp, dưới 45 tuổi. Đây là một bước phấn đấu để đạt tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ cơ sở.
Việc thực hiện chính sách về hưu và chế độ 130 đối với cán bộ xã đến tuổi hưu được thực hiện có nề nếp, đảm bảo quyền lợi về kinh tế kịp thời, giúp anh em đỡ khó khăn trong cuộc sống đã có tác dụng cổ vũ động viên số đương chức.
Thực hiện trẻ hoá và chú ý cán bộ nữ tuy chưa đạt yêu cầu đề ra, song đã có nhiều cố gắng, đảng uỷ thị trấn đến 2005 tuổi trung bình là 45 thấp hơn tuỏi trung bình của đảng viên trong toàn Đảng bộ là 5 tuổi, số cán bộ chủ trì của thị trấn 100% học xong trung học phổ thông, trung cấp chính trị và chuyên môn, một số đã học và đang học chương trình đại học. Số cán bộ nữ chiếm tỷ lệ 20% trong đảng uỷ và chính quyền, Mặt trận...
Công tác kiểm tra đảng đã hoạt động có nề nếp, có nội quy và chương trình cụ thể nên chủ động trong công tác hàng tháng, hàng quý, tránh được bị động chạy theo vụ việc, đã giải quyết tương đối kịp thời 70% các đơn thư tố cáo, chất vấn của Đảng viên.
Hoạt dộng của uỷ ban kiểm tra của đảng uỷ thị trấn tương đối toàn diện, đúng hướng. Đã thường xuyên kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị, 19 điều  cấm, kiểm tra chấp hành điều lệ đảng, kiểm tra những cán bộ, đảng viên có dấu hiệu vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật nhà nước.
Công tác kiểm tra đảng đã có sự phối hợp với ban thanh tra nhân dân. Đã có tác dụng trong công tác lựa chọn cán bộ, bầu cấp uỷ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân và chấp hành các đoàn thể.
6. Củng cố hệ thống chính trị.
- Công tác củng cố hệ thống chính trị bao gồm hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân, mặt trận và các tổ chức quần chúng từ ngày thành lập thị trấn đến nay đã chủ yếu tập trung vào khâu trọng tâm là: kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả công tác, hướng xuống khối phố, sát dân đồng thời triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, pháp lệnh về thanh tra nhân dân, tăng cường công tác giám sát của Hội đồng nhân dân và Mặt trận tổ quốc.
- Đối với hội đồng nhân dân thị trấn, đảng uỷ đã lãnh đạo tốt các kỳ bầu cử đúng luật, số cử tri tham gia trên 99%, cơ cấu hợp lý, chú ý thích đáng lực lượng trẻ, nữ và quần chúng tốt ngoài đảng. Hoạt động của hội đồng nhân dân khắc phục bước đầu có hiệu quả bệnh hình thức, đề cao trách nhiệm giám sát.
- Uỷ ban nhân dân được trẻ hoá, công chức hoá nên năng lực trình độ được bồi dưỡng và đào tạo, có bước trưởng thành cả về văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ. Hoạt động của chính quyền thị trấn đã tuân thủ tốt hơn các pháp luật, pháp lệnh, nghị định của chính phủ, quyết định của huyện và tỉnh. Công tác lập dự toán, thu chi và quyết toán ngân sách đi vào nề nếp đúng theo pháp lệnh về ngân sách, bước đầu khắc phục được toạ chi, chi không có kế hoạch, công tác chống thất thoát, tham nhũng đối với ngân sách được ngăn chặn có hiệu quả. Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sỏ theo tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên một số công việc thu được kết quả tốt như trong công tác xây dựng cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm, trụ sở, hội quán...
Công tác tiếp dân, cải cách hành chính, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân dần dần khắc phục bệnh hình thức.
Mặt trận tổ quốc và các thành viên của mặt trận bao gồm các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội nghề nghiệp mới được hình thành như: Hội cựu giáo chức, cựu thanh niên xung phong, khuyến học, câu lạc bộ những gia đình không sinh con thứ 3 và không có tội phạm, không ma tuý, HIV... đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân hướng vào mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Mặt trận đã chú ý hơn công tác giám sát hoạt động của chính quyền và cán bộ công chức, tăng cường phối hợp với hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân và các đoàn thể để triển khai lồng ghép nội dung các phong trào, các cuộc vận động lớn như:
- Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
- Xoá đói giảm nghèo, xoá nhà tranh tre dột nát.
- Chăm sóc và thực hiện tốt chính sách đối với người có công.v.v...
Công tác tôn giáo vận đối với bà con theo đạo thiên chúa và đạo phật đã tuân thủ theo pháp luật, tôn trọng tự do tín ngưỡng, đoàn kết nội bộ nhân dân, sống tốt đời đẹp đạo, làm cho quốc thái dân an trở thành mục tiêu phấn đấu của bà con giáo cũng như lương, có đạo và không theo đạo, nhờ đó giữ vững khối đoàn kết, ổn định chính trị phản kích kịp thời các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Nhìn chung công tác xây dựng đảng, củng cố hệ thống chính trị sau 10 năm thị trấn Xuân An ra đời thu được thành tựu tương đối toàn diện, song còn bộc lộ những thiếu sót và tồn tại. Tồn tại lớn nhất là một số cán bộ Đảng viên trong đó có cốt cán chủ trì (một số đã bị xử lý) vì đã vi phạm pháp luật, quản lý đất đai lỏng lẽo, không đúng quy hoạch, thiếu công khai dân chủ trong việc cấp đất nên để lại hậu quả lâu dài, đến nay chưa khắc phục được, tạo nên tình trạng khiếu kiện tố cáo kéo dài nghiêm trọng, làm mất lòng tin của quần chúng. Mặt khác sự chỉ đạo của cấp trên, cả huyện và tỉnh đối với thị trấn Xuân An trong công tác quản lý và cấp đất đai theo quy hoạch, có nhiều biểu hiện tiêu cực đã nhiều lần tổ chức thanh tra, có kết luận song thiếu sự chỉ đạo xử lý tình hình đó đã gây nhiều khó khăn cho cơ sở.
Nhìn chung công tác cán bộ tuy có nhiều mặt tiến bộ, song còn có một số tồn tại như: Đội ngũ kế cận chưa có bổ sung đầy đủ cả về số lượng và chất lượng quy hoạch cán bộ còn hụt hẫng, chưa vững chắc.
Lãnh đạo công tác trật tự an toàn xã hội, bài trừ tệ nạn xã hội chưa đi vào thế ổn định, lâu dài, còn tiềm ẩn các yếu tốt bất an về ma tuý, HIV, gây gỗ, trộm cắp và các loại tội phạm khác.
KẾT LUẬN:
Thị trấn Xuân An ngày nay là đất Kẻ Lau, kẻ Lách xa xưa, đất An lạc – Khải Mông thời Lý- Trần là vùng đất địa linh nhân kiệt, có núi Hồng Lĩnh bốn mùa soi bóng xuống sông Lam, có Bến Thuỷ, núi Cơm, chùa Thanh Lương, Phong Phạn có núi Ranh, núi Lần với bao sự tích văn hoá lịch sử, là những chứng tích từ thời đại đồ đá mới, thời Hùng vương dựng nước, nơi đã từng có con người tự cư trú buổi bình minh của lịch sử dân tộc, Trải qua bao biến thiên của lịch sử, thời nào đất An Lạc – Khải Mông cũng có biết bao người dân ở tuyến đầu chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương đất nước.
Kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của tổ tiên, cha ông từ ngày có đảng và Bác Hồ lãnh đạo người dân An Lạc – Khải Mông lại viết tiếp những trang sử mới là con đẻ của cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, hai chi bộ Khải Mông và An Lạc được ra đời vào 1931 với 6 đảng viên cộng sản đã cắm mốc son chói lọi trong lịch sử oai hùng của quê hương. Ngày 01/5/1930 những người dân ưu tú ở An Lạc đi đầu là Nguyễn Liệu đã cắm ngọn cờ đỏ búa liềm trên đỉnh núi Cơm, trước chùa Phong Phạn. Màu cờ đỏ vẻ vang ấy đã dẫn lối cho toàn dân An Lạc vùng lên đấu tranh sống mãi với thực dân phong kiến .
Nối tiếp truyền thống của các chiến sỹ Xô Viết, dưới sự chỉ đạo của uỷ ban Khởi nghĩa Nghi Xuân ngày 20 tháng 8 năm 1945 tự vệ cứu quốc An Lạc Khải Mông đã tịch thu vũ khí của lính bảo an ở đồn Khải Mông kéo về huyện lỵ làm hậu thuẫn cho công cuộc giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám.
Đầu năm 1946 chi bộ An Lạc được khôi phục lại, đã lãnh đạo toàn dân ra sức chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến và đẩy mạnh ba phong trào cách mạng sôi nổi diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Trong kháng chiến chống Pháp, hai xã An Lạc và Giang Nam hợp nhất thành xã An Giang, một trong 13 xã kiên cường của Nghi Xuân thời kỳ chống Pháp, đã lập nên bao thành tích xây dựng hậu phương, chi viện đắc lực cho chiến trường Bình Trị Thiên, Trung hạ Lào và mặt trận Điện Biên Phủ.
Sau thắng lợi của phát động quần chúng giảm tô, tháng 4/1954 xã An Lạc đã được tái lập có thêm làng Khải Mông thành xã Xuân An.
Xuân An trong những năm hai lần chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ là trọng điểm đánh phá vô cùng ác liệt có tính chất huỷ diệt của không quân và hải quân Mỹ. Song Đảng bộ và quân dân Xuân An vững vàng bám trụ trên mảnh đất kiên cường của quê hương, ngày đêm bám đồng, bám đường, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đảm bảo giao thông thông suốt, chi viện sức người sức của cho tiền tuyến.
Ghi nhận chiến công và thành tích những năm đánh Mỹ và thắng Mỹ của Đảng bộ và quân dân Xuân An, đảng và nhà nước đã tặng danh hiệu vẻ vang: “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Sau ngày tái lập tỉnh Hà Tĩnh, tháng 9/1994 xã Xuân An được Chính phủ ra nghị định chuyển thành thị trấn Xuân An. Sự kiện lịch sử trọng đại này dã tạo tiền đề vô cùng thuận lợi để biến vùng An Lạc – Khải Mông tuy là đất địa linh nhân kiệt nhưng kinh tế còn thuần nông, hậu quả chiến tranh chống Mỹ còn để lại, đời sống nhân dân còn nghèo nàn lạc hậu nay có điều kiện mới để tiến lên đô thị trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trải qua hơn 10 năm kiên trì phấn đấu, vượt qua mọi trở ngại thị trấn Xuân An đã có bước trưởng thành vượt bậc.
75 năm trước, đất An Lạc Khải Mông chỉ có 6 đảng viên cộng sản, với hơn 1000 dân, hầu hết còn mù chữ, 80% không có ruộng đất phải làm tá điền cho nhà giàu, quanh năm đói rách cơ hàn. Ngày nay đất An Lạc – Khải Mông trở thành một thị trấn trẻ có 15 chi bộ đảng với gần 400 Đảng viên, có cơ cấu nông công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, toàn dân đã phổ cập cấp trung học cơ sở trong độ tuổi, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 4,5 triệu đồng một năm, 100% nhà dân đã ngói hoá trong đó có 10% nhà kiên cố, cao tầng, đường làng, ngõ xóm xưa lầy lội nay đa bê tông hoá với độ dài trên 25km. ngọn đèn dầu lạc leo lét xưa, nay được thay bằng bóng điện cao áp, 100% số hộ được sử dụng điện. Bốn công trình điện, đường, trường, trạm nối tiếp nhau mọc lên làm thay đổi bộ mặt của đất An Lạc – Khải Mông từng ngày.
Ôn lại lịch sử 75 năm đấu tranh, cách mạng vẻ vang của quê hương, đảng bộ và nhândân thị trấn Xuân An không bao giờ quên công lao trời biển của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác Hồ vĩ đại và tưởng nhớ những chiến sĩ, đồng bào đã vì tổ quốc vì quê hương đã ngã xuống trên các chiến trường và hi sinh do bom đạn giặc Mỹ trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước ở quê nhà.
Đảng bộ và nhân dân thị trấn Xuân An nguyện học tập và noi theo tinh thần bất khuất, một lòng một dạ phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân của các đảng viên Đảng cộng sản lớp đầu tiền trên đất An Lạc, Khải Mông mà tiêu biểu là đồng chí Hà Trình.
Tiếp bước cha, anh, lớp cán bộ chủ chốt của An Lạc, Khải Mông trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trong hợp tác hoá nông nghiệp, xây dựng ba ngọn cờ hồng và trong thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh đã chịu đựng moi thiếu thốn, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi thử thách tỏ rõ phẩm chất cao đẹp của những chiến sỹ cộng sản vì nước vì dân mà phục vụ tiêu biểu là đồng chí Nguyễn Liệu, Nguyễn Chiểu, Hoàng Hạnh, Lê Thuý…
Trong bước đường đi lên của một thị trấn thoát thai từ nông thôn, nông nghiệp thuần tuý gặp không ít khó khăn, phức tạp nhất là chịu sự tác động mặt trái của kinh tế thị trường tất yếu là những người vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của nhà nước trước sau cũng bị đào thải. Đây cũng là bài học quí báu để mọi cán bộ, đảng viên lớp trẻ, đương chức phải thường xuyên “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Với truyền thống của một đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, với kinh nghiệm của chặng đường 75 năm chiến đấu và xây dựng trong những hoàn cảnh, điều kiện vô cùng khốc liệt, phải chịu đựng nhiều hi sinh tổn thất về người và của nhưng đảng bộ và nhân dân Xuân An trăm người như một kiên định, vững vàng giữ vững lòng tin vào đảng và Bác Hồ soi đường chỉ lối nhất định đi đến thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc. Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới đất nước, nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cũng như cả nước nói chung, thị trấn Xuân An đang phải đối mặt với những khó khăn phức tạp mới, những tồn tại lớn là: chưa thoát khỏi một thị trấn còn nghèo, còn bộn bề bao công việc mới và phải tháo gỡ bao điều vướng mắc khuyết điểm trong công tác quản lý đất đai, thực hiện quy hoạch của thị trấn. Song chúng ta tin tưởng sắt đá rằng: Tiến lên và phát triển là quy luật cuộc cách mạng Việt Nam, là truyền thống đấu tranh xây dựng của đảng bộ và nhân dân An Lạc – Khải Mông xưa, thị trấn Xuân An ngày nay./.
         

 
 

Nguồn tin: Đảng ủy Thị thấn Xuân An